Lái xe hơi nhanh hơn tốc độ tối đa cho phép (ví dụ con đường đó giới hạn ở 60km/giờ mà ta chạy 70 - tức cao hơn 10km/h so với qui định) có giúp chúng ta tới nơi nhanh hơn hay không? Đó là câu hỏi mà một độc giả gởi tới trang Lifehacker. Và câu trả lời là CÓ, nhưng thời gian tiết kiệm được rất ít, tối đa chỉ khoảng 12 phút cho quãng đường đi 50 dặm (tương đương 80km). Chúng ta chỉ tiết kiệm được từ 47 tới 84 phút nếu chạy quá tốc độ cho chặng đường dài lên tới 500 dặm (800km). Do đó, chúng ta không nên chạy quá tốc độ vì đây là điều rất nguy hiểm.
Điều đầu tiên chúng ta cần biết là Luật giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện đang phạt rất nặng, lên tới 10 triệu đồng đối với xe hơi và 3 triệu đồng đối với người lái xe máy cho lỗi chạy xe quá tốc độ. Ngoài ra, chạy quá tốc độ còn có nguy cơ gây tai nạn rất cao vì người lái sẽ không kịp phản ứng những điều bất ngờ xảy ra trên đường.
Dưới đây là các thông số về quãng đường đi và thời gian tiết kiệm được mà Lifehacker đã thực hiện để cho chúng ta thấy. Đơn vị họ sử dụng là Mile - Dặm (tương đương 1,61km), mình không đổi ra km vì số sẽ bị lẻ, khó hình dung.
Theo như bảng thống kê ở trên mà chúng ta đã xem. Với những quãng đường di chuyển ngắn, ví dụ ở mục A, B, C là quãng đường 15 dặm (tương đương 24km), ví dụ tốc độ tối đa cho phép là 35;45;55 dặm/giờ mà chúng ta chạy ở 45; 55; 65 dặm/giờ (tức cao hơn cho phép 10 dặm/giờ). Thì chỉ tiết được được từ gần 3 đến 6 phút mà thôi.
Với quãng đường G dài 50 dặm (tương đương 80km), với tốc độ tối đa cho phép 45 dặm/giờ nếu chạy với 55 dặm/giờ (vượt quá 22% cho phép) thì thời gian tiết kiệm được là 12 phút. Như vậy với con số ngắn ngủi đó, mà chúng ta thường phung phí khi ngồi quán cafe, lướt web hay chơi game, thì có đáng phải phóng nhanh trên đường để đánh đổi hay không?
Nên nhớ rằng chạy quá tốc độ sẽ bị phạt rất nặng. ở nước ta là lên tới 10 triệu đồng đối với xe hơi và 3 triệu đồng đối với người lái xe máy.Đó là ở điều kiện lí tưởng. Lifehacker cũng làm một tính toán nhỏ khác. Cũng lấy quãng đường G dài 50 dặm. Nhưng ví dụ cứ mỗi 2 dặm chúng ta dừng ở một ngã 4 đèn xanh đèn đỏ, tổng cộng 25 lần dừng, mỗi lần mất 30 - 45 giây, thì thời gian chờ lúc này mất 12,5 tới gần 19 phút. Như vậy, nếu chạy đúng tốc độ chúng ta sẽ mất khoảng 1 giờ cho quãng đường này, còn nếu chạy quá tốc độ 10 dặm/giờ, bù trừ giữa thời gian tiết kiệm được và thời gian chờ đèn đỏ, thì chúng ta chỉ tiết kiệm được từ 6 - 10 phút mà thôi. Điều đó có đủ thuyết phục bạn chạy quá tốc độ hay không?
Do đó, thay vì chạy quá tốc độ, đó vài mẹo vặt rất hữu ích giúp chúng ta không phải chạy quá tốc độ mà vẫn tiết kiệm được thời gian, như sau:
- Lên kế hoạch trước cho chuyến đi: Với những chuyến đi dài, ví dụ đi du lịch hoặc đi tour với bạn bè. Việc lên kế hoạch trước rất quan trọng và hữu ích, nó sẽ giúp chúng ta dự đoán được ở thời điểm nào sẽ dừng ở đâu, tham quan các địa điểm nào. Từ đó có kế hoạch sử dụng thời gian hiệu quả.
- Hạn chế đi sai đường: Biết trước quãng đường sẽ đi rất có ích, nó giúp chúng ta không bị đi lạc, từ đó tiết kiệm được thời gian. Ngoài ra, trong những quãng đường dài thì nên hạn chế tình trạng xe bị hết xăng giữa đường, chúng ta nên ghé trạm xăng và đổ xăng khi cần thiết.
- Khi di chuyển theo đoàn nhiều người. Cần có kế hoạch nối đuôi nhau an toàn để có thể hỗ trợ nhau khi có sự cố, cũng như không tốn thời gian dừng lạc chờ xe khác nếu như có xe bị lạc.
Chủ Nhật, 6 tháng 4, 2014
Lái xe quá tốc độ có giúp chúng ta tiết kiệm nhiều thời gian hay không?
[Tại sao] Mỹ dùng đơn vị dặm, feet để đo độ dài trong khi những nước khác dùng kilomet, mét?
Đơn vị đo lường là vấn đề phần thiết yếu trong mọi lĩnh vực của một quốc gia nói chung và cuộc sống mỗi người nói riêng. Đơn vị đo lường có vai trò quan trọng chẳng những trong nghiên cứu khoa học mà còn đối với tất cả các hoạt động khác trong cuộc sống con người.
Tại Việt Nam, đơn vị đo lường được sử dụng thống nhất theo chuẩn đo lường quốc tế SI. Bạn dùng kg để tính cân nặng, lít để đo thể tích,... Đó là những điều quá quen thuộc với mỗi người chúng ta từ trong trường phổ thông đến các vấn đề trong đời sống hàng ngày. Thế nhưng, một ngày nọ bạn xem tin tức thị trường thế giới trên TV với thông báo rằng giá dầu tại Mỹ là đô la 1 gallon. Chắc hẳn bạn sẽ tự hỏi tại sao Việt Nam dùng đơn vị lít cho xăng dầu nhưng bản tin thị trường tại Mỹ lại đo bằng gallon? Không chỉ thể tích, mà đối với nhiều đại lượng vật lý, Mỹ vẫn dùng nhiều đơn vị đo khác như dặm, feet, ounce, pound,... để đo lường.
Đúng vậy, đó là một thực tế vẫn còn tồn tại hiện nay. Vậy nguyên nhân của điều này là gì? Chuyên mục "Tại Sao" tuần này sẽ cùng các bạn đi tìm câu trả lời cho việc "Tại sao có sự khác nhau về đơn vị đo lường giữa Mỹ và các nước khác?". Cụ thể hơn: "Tại sao Mỹ dùng dặm để đo độ dài khi nhiều nước khác dùng km, tại sao dùng pound để đo cân nặng trong khi có nơi lại dùng kg?"
Tình hình sử dụng đơn vị đo lường tại các nước trên thế giới
Hệ thống đo lường là một bộ các đơn vị đo lường có thể dùng để đo lường bất cứ đại lượng vật lý nào. Chiều dài, khối lượng và thời gian là tập hợp những đơn vị đo lường cơ bản nhất, từ đó có thể suy ra nhiều đơn vị đo các đại lượng vật lý khác. Trong lịch sử, các hệ đo lường được hình thành dần theo quy ước địa phương để phục vụ trao đổi hàng hóa, đo đạc đất đai... Thời phong kiến, các vị vua quy định dùng các hệ đo lường thống nhất trong lãnh thổ trị vì.
Khi giao thương quốc tế trở nên thịnh hành, các hệ đo lường chuẩn cho nhiều quốc gia ra đời. Từ bản đồ sử dụng hệ thống đo lường trên cho thấy, hiện tại hầu hết các quốc gia trên thế giới đều chấp nhận và sử dụng hệ thống đo lường hệ mét(hệ đo lường quốc tế, hệ đo lường SI - International System of Units, trong tiếng Pháp là Système International d'unités).
Nguồn gốc thực sự của SI, hay hệ mét, có thể tính từ những năm 1640. Nó được phát minh bởi các nhà khoa học Pháp và nhận được sự quảng bá lớn bởi Cuộc cách mạng Pháp năm 1789 để trở nên phổ biến hơn. Hệ mét được phát triển kể từ năm 1791 trở đi bởi hội đồng Académie des sciences đã sử dụng các nguyên tắc đo chiều dài, thể tích và khối lượng được đề xuất bởi giáo sĩ An John Wilkins năm 1668.
Hệ mét cố gắng lựa chọn các đơn vị đo lường không mang tính tùy ý, trong khi gắn liền với tư tưởng chính thức của cuộc cách mạng là "lý trí thuần túy". Đây là một sự cải thiện đáng kể đối với các đơn vị đo hiện hành bấy giờ do giá trị của chúng thông thường phụ thuộc theo từng khu vực.
Bên cạnh đó, trên thế giới có 3 khu vực vẫn chưa áp dụng hệ đo lường quốc tế là: Mỹ, Liberia và Myanmar. 3 nước trên hiện vẫn còn sử dụng một hệ thống đo lường của riêng mình dựa trên các yếu tố lịch sử còn kế thừa đến ngày nay. Và một điều cần phải đề cập đến chính là việc thay đổi hệ thống đo lường tại một quốc gia không chỉ đơn giản là một thông báo, một văn bản, một đạo luật mà còn phụ thuộc vào rất nhiều các trở ngại khác.
Mặc dù Mỹ đã đặt ra một lộ trình dần chính thức áp dụng hệ thống đo lường quốc tế trên phạm vi toàn lãnh thổ, nhưng tình hình sử dụng các đơn vị đo lường vẫn còn rất nhiều rắc rối. Một ví dụ đơn giản, một sân bóng đá tại Mỹ thường được đo đạc bằng đơn vị yard trong khi độ dài đường chạy điền kinh lại đo bằng mét. Công suất của một số động cơ thường được đo bằng mã lực trong khi một số khác lại đo bằng dung tích xi lanh.
Trên đây chỉ là một số ví dụ cho thấy đơn vị đo lường là một vấn đề khá phức tạp tại Mỹ. Đây được gọi là đơn vị đo lường Mỹ (US Customary System) hoặc hệ thống inch-ound. Theo thống kê, tại Mỹ có hơn 300 đơn vị đo lường dành cho nhiều đại lượng vật lý khác nhau. Nhiều đơn vị trong số đó có cùng tên gọi nhưng lại có ý nghĩa khác nhau. Theo số liệu thống kê, chỉ 1 đơn vị "ton" (tấn) nhưng lại có tới 9 ý nghĩa khác nhau: tấn ngắn, tấn dài, trọng lượng rẽ nước, tấn điện lạnh, tấn hạt nhân, tấn trong vận chuyển hàng hóa, tổng tải trọng đăng ký, tấn khảo nghiệm và tấn tương đương than.
Vậy bây giờ chúng ta có thể chia thế giới ra làm 2 phần: một phần lớn đang áp dụng chuẩn đo lường SI và phần còn lại hiện đang áp dụng chuẩn đo lường riêng mà đại diện là Mỹ. Câu hỏi đầu bài sẽ được chuyển thành: Tại sao Mỹ không sử dụng hệ đo lường SI trong các hoạt động thương mại lẫn thường nhật? Để hiểu được điều đó, trước tiên chúng ta hãy nhìn lại một đoạn lịch sử ngắn gọn các tiêu chuẩn đo lường châu Âu đã đến với Mỹ như thế nào?
Lịch sử hệ thống đo lường tại Mỹ
Trong quá trình khai phá và xâm chiếm Mỹ của thực dân Anh, người Mỹ đã kế thừa và sử dụng hệ thống đo lường Anh (British Imperial System). Đây là hệ thống đo lường tiến hóa từ hàng loạt những tiêu chuẩn đo lường phức tạp có từ thời Trung Cổ. Ngay cả khi người Pháp đã phát triển và hoàn thiện hệ thống đo lường hệ mét (metric system) từ cuối những năm 1700, Anh và các thuộc địa của họ trong đó có Mỹ vẫn phải sử dụng hệ thống đo lường cổ.
Trong lịch sử, các đời lãnh đạo Hoa Kỳ vẫn luôn muốn kiểm soát sự hỗn loạn trong vấn đề đơn bị đo lường của mình. Trong hiến pháp thành lập hợp chủng quốc Hoa Kỳ, điều I, mục 8 có quy định rằng Quốc Hội có quyền sửa chữa các tiêu chuẩn về cân nặng và đo lường. Người thực thi vấn đề trên lần đầu tiên là Thomas Jefferson, bộ trưởng bộ ngoại giao dưới thời tổng thống George Washington vào năm 1790. Jefferson đã chấp thuận một hệ thống đo lường thập phân.
Danh sách một số đơn vị đo lường tại Mỹ vào đầu thế kỷ 19
Tuy nhiên, khi trình bày các nguyên tắc cơ bản của hệ thống đo lường thập phân dựa trên hệ mét, Jefferson cảm thấy việc áp dụng điều này cho quốc gia là đều khá miễn cưỡng. Ông lo sợ rằng nước mỹ sẽ không thể kiểm chứng đơn vị đo độ dài hệ mét và phải cần tốn kém chi phí thuê người Pháp giúp đỡ.
Tình hình chính trị bấy giờ tại Mỹ cũng không giúp giải quyết được vấn đề. Dù người Pháp đã có nhiều giúp đỡ Mỹ thực hiện cách mạng, nhưng mối quan hệ giữa họ lại trở thành thù địch sau khi hiệp ước Jay được phê chuẩn vào năm 1795. Hiệp ước Jay cho phép Anh kiểm soát khu vực lãnh thổ phía Tây Bắc và Mỹ có một số quyền được thực hiện giao thương tại Tây Ấn (vùng thuộc bồn địa Caribe và Bắc Đại Tây Dương). Đối với người Pháp, đây chính là một mối liên minh chớm nở giữa Anh-Mỹ và người Pháp không.
Bấy giờ, người Pháp trả đũa bằng cách gởi các tàu truy lùng nhằm vào các tàu buôn của Mỹ. Khi John Adams trở thành tổng thống Mỹ vào năm 1797, mối thù địch giữa Mỹ và Pháp ngày càng trở nên nghiêm trọng. Không lâu sau đó, vào năm 1798, Pháp càng thể hiện sự thù địch của mình bằng cách hạ nhục Mỹ khi mời các chức sắc từ nhiều nước khác đến Paris nhằm nghiên cứu về hệ thống đo lường mét.
Mặc dù đại diện phía Mỹ cũng đã đến Paris vào năm 1798 vằ đã rất thán phục trước những ưu điểm của hệ thông đo lường mét, dù vậy điều này vẫn chưa đủ thuyết phục các lãnh đạo Mỹ thay đổi hệ thống đo lường hiện tại của họ. Vào năm 1821, sau khi nghiên cứu tình hình sử dụng các đơn vị đo lường tại 22 bang ở Mỹ, bộ trưởng bộ ngoại giao John Quincy Adams nhận thấy rằng hệ thống đo lường kiểu Mỹ đã đủ thống nhất và không cần thiết phải thay đổi. Thêm vào đó, một số ý kiến tại Mỹ còn cho rằng hệ thống mét của Pháp sẽ sớm nhận lấy kết thục bi thảm như cái chết của triều đại Napoleon Bonaparte vào đầu thế kỷ 19.
Tuy nhiên, theo dòng chảy của lịch sử, hệ đơn vị mét dần phổ biến rộng rãi và được chấp nhận bởi nhiều quốc gia trên thế giới. Lợi thế của việc sử dụng hệ thống này là có thể dễ dàng giao tiếp về dữ liệu trên phạm vi toàn thế giới, dễ dàng chuyển đổi độ lớn dựa vào bội số và ước số của 10 thay vì dùng các con số cụ thể nhưng khó nhớ. Và dĩ nhiên, người Mỹ cũng nhận thấy được điều này.
Mỹ quyết định công nhận hệ thống đo lường hệ mét
Theo thời gian, hệ thống đo lường hệ mét ngày càng có nhiều ảnh hưởng đến các nước trên thế giới. Khi nội chiến Mỹ kết thúc vào năm 1865, hầu hết châu Âu đã phê chuẩn sử dụng hệ thống đo lường dựa trên hệ thập phân và dĩ nhiên, Mỹ cũng muốn thực hiện điều này. Vào năm 1866. một đạo luật được Quốc Hội Mỹ thông qua và được chính thức phê duyệt bởi tổng thống Andrew Johnson nêu rõ: đạo luật quy định sử dụng hệ thống đo lường hệ mét trong tất cả các hợp đồng, giao dịch hoặc thủ tục tố tụng trên phạm vi toàn nước Mỹ.
Vào thời gian này, Pháp muốn tất cả các quốc gia hàng đầu trên thế giới cùng nhau xây dựng lên một phiên bản mới của hệ thống đo lường mét. Và dĩ nhiên, Mỹ cũng nhận được lời mời và gởi các đại biểu đến tham dự. Các quốc gia đều đã đồng ý ký vào bản hiệp ước mét (Treaty of the Meter), thành lập Ủy ban quốc tế về đo lường nhằm thực hiện việc xem xét và thay đổi hệ thống đo lường thế giới.
Bản hiệp ước cũng quy định thành lập một phòng thí nghiệm tại Sèvres gần Paris, nhằm lưu trữ các chuẩn đo lường hệ mét quốc tế như mẫu mét quốc tế và phân phối các mẫu này đến các quốc gia sử dụng.
Hình ảnh thước platinum tiết diện chữ X để kiểm định mét quốc tế
Mỹ đã nhận được bản sao của mẫu mét quốc tế và mẫu kilogram quốc tế vào năm 1890. 3 năm sau vào năm 1890, bộ trưởng bộ tài chính Mỹ Thomas Corwin Mendenhall chính thức quy định các tiêu chuẩn đo độ dài và cân nặng tại Mỹ đều sử dụng hệ mét thông qua quy định mang tên Mendenhall Order. 1 yard được xác định bằng 1600/3937 mét và cân nặng 1 pound được xác định bằng 0.4535924277 kilogram. Vào năm 1959, những quốc gia nói tiếng Anh chấp nhận 1 quy ước chuyển đổi mới và cải tiến hơn: 1 yard bằng 0.9144 mét và 1 pound bằng chính xác 0.45359237 kilogram.
Đọc tới đây, có thể bạn sẽ hỏi rằng: tại sao Mỹ đã chính thức chuyển sang dùng hệ mét từ hơn 120 năm trước nhưng hiện nay vẫn tồn tại những đơn vị khác? Thắc mắc của bạn sẽ được giải đáp ở phần tiếp theo: được công nhận không nhất thiết là phải được áp dụng vào sử dụng.
Hệ thống đo lường hiện nay tại Mỹ
Mendenhall và nhiều nhà lãnh đạo chính trị cùng các nhà khoa học đã ủng hộ việc bắt buộc áp dụng hệ đo lường mét trên phạm vi toàn nước Mỹ. Tuy nhiên cho tới khi Mendenhall qua đời vào năm 1924, hệ thống đo lường tại Mỹ vẫn chưa có chuyển biến nào.
Đến năm 1971, cục tiêu chuẩn quốc gia Hoa Kỳ đã đưa ra một báo cáo với tiêu đề "Một chuẩn đo lường mét Mỹ" nhằm khuyến cáo nên chuyển đổi sang hệ mét tại Mỹ trong thời gian 10 năm tiếp theo. Để đáp lại, Quốc Hội Mỹ đã ban hành một đạo luật yêu cầu chuyển đổi sang hệ mét. Tuy nhiên thay vì quy định phải chuyển trong 10 năm, đạo luật của Quốc Hội cho phép chuyển đổi một cách tự nguyện.
Dù vậy tất cả các học sinh trên toàn nước Mỹ đều bắt đầu học các đơn vị hệ mét một cách nghiêm túc và một vài công ty cũng chuyển sang sử dụng đơn vị hệ mét. Tuy nhiên, đó chỉ là những bước đầu tiên trong việc thực hiện thay đổi đơn vị đo lường sang hệ mét tại Mỹ.
Trong lúc đó, quá trình toàn cầu hóa ngày một diễn ra mạnh mẽ, các công ty tại Mỹ bắt đầu nhận thấy mình đang khác biệt so với các mối quan hệ trên trường quốc tế. Ngày càng nhiều các công ty nước ngoài mua các sản phẩm từ Mỹ và họ đòi hỏi phải được giao hàng, dán nhãn và sản xuất theo chuẩn đơn vị hệ mét. Thêm vào đó, khi các công ty Mỹ xây dựng các nhà máy mới tại Châu Âu và Châu Á, họ phải đối mặt với sự khác biệt trong chuẩn đơn vị kiểu Mỹ và chuẩn quốc tế. Sự khác biệt này có thể gây ra cho các công ty những hậu quả tài chính khổng lồ nếu quyết định sai.
Nhận ra được vấn đề này, năm 1988, Quốc Hội Mỹ đã thông qua việc chuyển đổi số liệu hệ thống đo lường tại Mỹ thành "hệ thống đo lường ưa thích dùng trong mua bán thương mại tại Mỹ" đồng thời yêu cầu các cơ quan liên bang phải sử dụng "hệ thống đơn vị hệ mét trong việc phân phối, trợ cấp và các hoạt động khác có liên quan tới kinh doanh" vào cuối năm 1992. Tuy nhiên, đạo luật này vẫn tiếp tục cho phép các ngành công nghiệp tư nhân thực hiện chuyển sang hệ mét một cách tự nguyện và chính quyền liên bang chỉ khuyến khích mà không bắt buộc làm theo. Do đó, việc chuyển đổi diễn ra khá chậm chạp.
Theo một số ước tính, chỉ có khoảng 30% sản phẩm sản xuất tại Mỹ là tuân thủ theo đơn vị hệ mét. Các hãng dược phẩm sử dụng "hệ mét cứng", có nghĩa là tất cả các sản phẩm của họ đều đo lường theo hệ mét. Mặt khác, ngành công nghiệp đồ uông sử dụng cả đơn vị hệ mét và đơn vị kiểu Mỹ cho các sản phẩm của mình. Cách dùng này gọi là "hệ mét linh hoạt". Ngành công nghiệp phim, công cụ và xe đạp cũng được chuyển sang dùng đơn vị hệ mét. Tuy nhiên, hầu hết các ngành công nghiệp khác đều không thực hiện việc sử dụng đơn vị hệ mét thống nhất.
Tại sao phần lớn nước Mỹ lại không chuyển sang sử dụng hệ mét để hòa nhập với phần còn lại của thế giới? Hãy tìm những lý do trong mục tiếp theo nhé.
Chuyển sang hệ mét phải cần rất nhiều tiền?
Vấn đề chi phí chính là 1 lý do khiến quá trình chuyển sang dùng hệ mét tại Mỹ diễn ra chậm chạp. Việc chuyển đổi các bản vẽ kỹ thuật và các văn bản hướng dẫn vận hành các thiết bị phức tạp có thể phải mất thời gian hàng nghìn giờ. Điển hình như các kỹ sư tại NASA mới đây đã có thông báo rằng việc chuyển đổi các bản vẽ, phần mềm và tài liệu có liên quan tới tàu con thoi sang hệ thống SI có thể mất khoảng chi phí hơn 370 triệu đô la. Con số này đã chiếm khoảng 1 nửa chi phí chế tạo 1 tàu con thoi hoàn chỉnh.
Dĩ nhiên, vấn đề chi phí vẫn chưa đủ để lý giải việc nước Mỹ không chuyển sang hệ mét. Bên cạnh chi phí, một số vẫn đề về tâm lý cũng có ảnh hưởng không kém quan trọng. Sự cố chấp của người dân Mỹ cũng là một trong những nguyên nhân của vấn đề. Các công dân Mỹ luôn phản kháng việc chuyển sang dùng hệ mét, đặc biệt là việc chuyển đổi này bị thúc đẩy bởi các quốc gia khác.
Một số chuyên gia phân tích tâm lý cho rằng người Mỹ chỉ đơn giản là thích làm một cái gì đó khác người bởi lẽ chủ nghĩa cá nhân luôn là một đặc tính cố hữu đối với mỗi người Mỹ. Hệ tư tưởng này hình thành từ những người đầu tiên bắt đầu đi khai phá nước Mỹ hoang dã và lập nên một nhà nước thống nhất với nhiều gian nan. Một minh chứng cho chủ nghĩa này được thể hiện qua câu slogan của hiệp hội súng trường Mỹ: "Bạn chỉ có thể lấy được inch-pound từ bàn tay chết lạnh của tôi."
Tuy nhiên, lời giải thích hợp lý và được nhiều người công nhận nhất chính là Quốc hội đã thất bại trong việc áp dụng hẹ thống mét trong tất cả 50 tiểu bang và các vùng lãnh thổ khác. Với việc cho phép chuyển đổi tự nguyện theo đạo luật năm 1866, Mỹ đã không hạn chế việc người dân sử dụng đơn vị một cách tùy ý trong các hoạt động thường ngày của họ.
Cho tới khi toàn nước Mỹ đã thực hiện chuyển đổi thành công sang dùng đơn vị hệ mét, mỗi người Mỹ vẫn tiếp tục nghĩ về inch và pound thay cho mét và kg để đo cân nặng hay độ dài. Có thể, trong tương lai với xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ và sự nổi lên của các cường quốc khác, Mỹ có thể sẽ sớm có biện pháp cứng rắn hơn nhằm đảm bảo tính cạnh tranh của mình so với các nước trên thế giới. Còn bây giờ, bạn có thể dùng đơn vị mà bạn thích tại Mỹ - quốc gia của nữ thần tự do!
Đôi chút về hệ thống đo lường tại Anh
Thật ra, việc sử dụng đơn vị tại Anh có nhiều nét tương đồng với Mỹ. Một số người thường gọi chung hệ thống đo lường khác người này là hệ Anh-Mỹ. Hệ thống đo lường tại Anh ban đầu là 1 sự kết hợp các đơn vị đo lường của người La Mã, Carolignian và Saxon. Đây chính là tiền thân của hệ thống đo lường Anh (Imperial system of units) ra đời vào năm 1824.
Kể từ khi ra đời, hệ thống đo lường Anh đã trải qua nhiều đạo luật sửa đổi cách thức tính toán và được chính quyền ủng hộ duy trì cho toàn bộ các vùng lãnh thổ và thuộc địa của Anh. Thậm chí vào năm 1875, Anh đã từ chối ký vào hiệp ước chuyển đổi sang hệ mét và 3 năm sau đó, hộ ban hành đạo luật cấm người dân dùng hệ mét trong thương mại.
Một bình sữa tại Anh với nhiều loại đơn vị đo lường
Cho tới sau chiến tranh thế giới thứ 2, người Anh vẫn sử dụng hệ thống đo lường của mình với đơn vị yard đo độ dài và pound để đo cân nặng. Tuy tiếp theo sau đó, giới nghiên cứu khoa học và một bộ phận công dân đã có ý kiến yêu cầu chuyển đổi sang hệ mét nhưng chính quyền vẫn cố giữ lại truyền thống đơn vị của mình.
Dù vậy, xu hướng toàn cầu hóa không chừa một ai, kể cả Vương quốc Anh. Cuối cùng thì việc chuyển đổi sang hệ mét tại Anh cũng được bắt đầu vào giữa những năm 1960. Việc thực hiện chuyển đổi diễn ra một cách tự nguyện và tính đến năm 1985, nhiều đơn vị đo lường kiểu Anh đã được tự nguyện gỡ bỏ tại nhiều điểm kinh doanh bán lẻ. Dù vậy, một số đơn vị đo lường cũ như foot, inch, pound, ounce và gallon vẫn còn được sử dụng tại một số điểm bán lẻ, biển báo giao thông,...
Hiện nay, dù trên phạm vi toàn nước Anh đã chính thức chuyển sang dùng hệ mét, nhưng việc sử dụng đơn vị đo lường trong cuộc sống thường nhật tại một số nơi vẫn tồn tại một số vấn đề khá thú vị. Nếu bạn vào một cửa hàng tại Anh và hỏi mua phó mát, bạn có thể mua 100 gram phó mát hoặc 1/4 pound phó mát, người bán đều vui lòng bán cho bạn. Một số sản phẩm nông nghiệp bán lẻ vẫn còn được treo bảng giá tính bằng cả pound lẫn kilogram.
Bên cạnh đó, biển báo giao thông vẫn còn được đo bằng dặm nhưng giá xăng dầu lại tính bằng pound (bảng Anh) trên mỗi lít. Hiệu suất của động cơ xe được tính bằng đơn vị dặm trên gallon. Một số người dân vẫn còn dùng đơn vị feet để tính chiều cao của họ. Màn hình máy tính hay TV vẫn được đo kích thước bằng inch nhưng một số nơi tại Anh đã chuyển sang dùng centimeter.
Tại Anh, nếu bạn học các môn khoa học tự nhiên trong trường, tất cả các đơn vị đo đều theo hệ SI vì đây là chuẩn tính toán khoa học quốc tế và có thể chuyển đổi dễ dàng. Tuy nhiên, khi đề cập đến nhiệt độ trong đời sống cũng là một điểm thú vị. Các bản tin thời tiết tại Anh đều thông báo bằng cả độ C lẫn độ F. Nhưng khi người ta nói chuyện với nhay về nhiệt độ thời tiết, người dân thường có xu hướng dùng độ C khi nhiệt độ lạnh nhưng lại dùng độ F khi thời tiết ấm áp.
[Mỗi tuần 1 phát minh] Lịch sử 8000 năm của gương soi
Chiếc gương là một vật dụng quen thuộc với tất cả chúng ta. Không chỉ là một vật gia dụng thiết yếu trong mỗi gia đình, gương còn xuất hiện tại nhiều nơi với nhiều mục đích sử dụng khác nhau. Thậm chí, hãy tưởng tượng rằng một ngày nào đó chúng ta ra khỏi nhà mà không soi gương, đó thật sự là một điều khó chịu vô cùng. Trên suy nghĩ tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển của những vật dụng quanh ta, chuyên mục "Mỗi tuần 1 phát minh" tuần này sẽ cùng các bạn nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển của chiếc gương soi. Chúng ta sẽ cùng ngược dòng thời gian về 8000 năm trước, khi hình thái chiếc gương bắt đầu hình thành và điểm lại những cột mốc quan trọng trong việc chế tạo và sử dụng nó trong lịch sử. Còn bây giờ hãy cùng bắt đầu với mốc thời gian của chiếc gương đầu tiên...
Chiếc gương đầu tiên
Hình thái hết sức sơ khai của chiếc gương có lẽ là mặt hồ nước yên tĩnh, mặt đá bóng nhoáng hoặc nước trong các thùng chứa. Một điều thú vị là từ khoảng năm 722 trước công nguyên trở đi đã xuất hiện các ký tự Trung Quốc cổ mang ý nghĩa chiếc gương. Đó là jian hoặc jing, nghĩa là "một chiếc bồn lớn đựng đầy nước." Từ đó cho thấy, chính tự nhiên đã cho con người những chiếc gương soi đầu tiên nhất. Đây cũng chính là hình thái quan trọng khiến cho con người có ý tưởng dựa vào và chế tạo ra gương soi sau này.
Một số ý kiến cho rằng chính người Trung Quốc đã phát minh ra chiếc gương. Tuy nhiên, theo một số chứng cứ đáng tin cậy thì nhận định trên là chưa hoàn toàn chính xác.
Những vật dụng mang hình thái chiếc gương đầu tiên được tìm thấy trong các ngôi cổ mộ tại khu vực tiểu Á. Trong một vùng định cư có niên đại từ 6200 đến 6000 năm trước công nguyên, thuộc thời đồ đá mới tại vùng Çatal Hüyük, nhà khảo cổ Mellaart đã tìm thấy được những chiếc gương đầu tiên. Khu vực khai quật hiện nay thuộc nghĩa trang vùng Konya, phía nam Thổ Nhĩ Kỳ.
Những chiếc gương này được chế tạo bằng cách đánh bóng obsidian (thủy tinh núi lửa, đá vỏ chai) và có một bề mặt phản chiếu hình tròn hoặc hình nón. Tuy bề mặt phản chiếu hơi lồi lõm nhưng vẫn được đánh bóng một cách có chủ đích. Đường kính mỗi chiếc gương vào khoảng 9 cm và điều đáng chú ý là có thể phản chiếu hình ảnh khá tốt.
Chiếc gương đầu tiên được mài từ thủy tinh núi lửa
Các nhà khảo cổ đã khẳng định rằng: "Các vật này đã được dùng làm gương soi với đầy đủ chức năng của một bề mặt phản chiếu. Đó là một điều không thể nào tranh cãi được." Hơn nữa, các nhà khảo cổ tìm thấy chiếc gương được gắn cẩn thận trên vách của một ngôi mộ. Đồng thời, dựa trên nội dung điêu khắc trong mộ cho thấy đây là một ngôi mộ của nữ giới.
Tiểu Á là khu vực có nhiều khoáng sản corundum và thủy tinh núi lửa. Corundum (còn được gọi là bột mài) là một máy mài và đánh bóng vật liệu từ tự nhiên với độ cứng 9 trong thang đo độ cứng Mohs, nó có thể dễ dàng được dùng để đánh bóng các dạng khoáng sản khác.
Các vậy thể chế tạo từ thủy tinh núi lửa sau đó đã được mang đi từ Tiểu Á đến những nơi khác dùng làm mũi giáo, đầu tên, dao, trục, rìu và đồ trang sức. Do đó, hoàn toàn hợp lý khi suy luận rằng những chiếc gương làm bằng thủy tinh núi lửa cũng xuất phát từ vùng Tiểu Á này. Các nhà khảo cổ còn cho biết rằng những chiếc gương trên có 1 mặt thô ráp, một mặt kia được đánh bóng bằng bột mài và da.
Trong báo cáo mới đây của Colin Renfrew, giáo sư khảo cổ tại Đại học Cambridge, đã khẳng định rằng khoảng 6000 năm trước công nguyên, Çatalhöyük là một trong những khu vực có dân số lên tới 10.000 người. Đây chính là trung tâm của sự phát triển nông nghiệp và ngôn ngữ. Nếu dự đoán của giáo sư Colin là chính xác thì Çatalhöyük và rộng hơn là xứ Anatolia chính là nơi đầu tiên chế tạo ra chiếc gương của loài người.
Những chiếc gương tiếp theo sau đó
Những chiếc gương có niên đại tiếp theo được tìm thấy tại Ai Cập. Nhà khảo cổ William M, Flinders Petrie (1853 - 1942) cho rằng những phiến đá tảng đã được sử dụng làm gương soi trong thời kỳ Tiền triều đại Ai Cập. Các ghi chép của nhà khảo cổ Lilyquist cũng cho biết rằng nước bốc hơi rất nhanh trên những phiến đá này. Lilyquist còn khẳng định ngoài ra, những chiếc bát gốm được thiết kế để chứa đầy nước rõ ràng được dùng làm gương soi cũng được phát hiện được tại vùng Badari với niêm đại khoảng 4500 năm trước công nguyên. Các vật dụng tìm thấy tại Badari cũng có dấu vết của gỗ bao xung quanh được dự đoán là dùng làm khung của chiếc gương.
Hình ảnh khắc trên tường tại các lăng mộ có liên quan tới gương
Các nhà khảo cổ cũng đã tìm thấy di tích của những chiếc gương đồng đánh bóng có niên đại vào khoảng 4000 đến 3000 năm trước công nguyên tại thung lũng Tigris-Euphrates (hiện nay là vùng thuộc Irag). Bắt đầu từ thời điểm này, các nhà khảo cổ cũng đã tìm thấy sự xuất hiện của những chiếc gương trong các món đồ điêu khác, trong các văn bản giấy cói,... tại các khu vực cổ đại thuộc vùng Lưỡng Hà, Ai Cập, và Levant.
Một cổ vật gương soi tìm thấy tại Ai Cập
Khác với những chiếc gương bề mặt phẳng được tìm thấy ban đầu, những chiếc gương tiếp theo có bề mặt lồi hoặc lõm. Dạng gương lồi nên nhìn thấy hình ảnh to trong một khu vực nhỏ của chiếc gương. Bề mặt lõm được dùng để phóng lớn các hình ảnh cần nhìn.
Giai đoạn này gương được con người ghép với những khả năng huyền bí và thường được sử dụng trong các cuộc tế lễ, tế thần.
Gương tại khu vực Đông và Trung Á, bao gồm cả Trung Quốc
Các nhà khảo cổ học cho rằng những chiếc gương tại Trung Quốc được phát triển một cách độc lập và có hình thái khác so với gương ở phương Tây. Họ khẳng định rằng tiền thân những chiếc gương tại Trung Quốc có nguồn gốc từ Siberia tại các khu vực Andronovo, Karasuk, phía bắc dãy núi Kavkaz gần biển đen.
Tại Trung Quốc, 2 chiếc gương được phát hiện tại Tây An, Thanh Hải có niên đại khoảng 2000 năm trước công nguyên thuộc nền văn hóa nước Tề. Tiếp theo đó, những chiếc gương cũng được tìm thấy tại lăng mộ của Phụ Hảo, 1 trong 60 phi tần của vua Phụ Hiến thuộc nhà Thương, có niên đại vào khoảng 1300-1028 năm trước công nguyên. Sau đó, gương được sử dụng một cách giới hạn tại Trung Quốc dưới thời Đông Chu (khoảng năm 1045-771 trước công nguyên).
Cổ vật chiếc gương tìm thấy trong lăng mộ Phụ Hảo
Những chiếc gương thời bấy giờ có đường kính từ 6 đến 12 cm, chưa có trang trí và được xỏ một lỗ nhô lên ở chính giữa nhằm treo tấm gương lên. Gương giai đoạn này thường được chế tạo bằng đồng hoặc hợp kim của đồng nên có kích thước mỏng và độ cứng khá cao. Bằng chứng của những chiếc gương tiếp theo cũng được tìm thấy trên di tích con đường tơ lụa, trong những ngôi mộ cổ đại và được nhắc tới trong các văn bản cổ.
Trong giai đoạn này, gương cũng được con người gán cho những khả năng huyền bí như thấy được quá khứ và tương lai, đưa ra các lời chiêm tinh và thậm chí là có thể nhìn thấu nội tâm của 1 người. Các đặc điểm này tương tự như cách nhìn của con người về gương soi tại Ai Cập và các khu vực cổ xưa khác thuộc cùng đương đại.
Trung và Nam Mỹ
Các di tích gương soi cũng được tìm thấy tại Nam Mỹ bởi các nhà khảo cổ học với niên đại vào khoảng năm 1925 trước công nguyên trở đi. Tại Mexico, người ta đã tìm thấy những chiếc gương được chế tạo và sử dụng bởi những người Olmec, Mayan, và Teotihuacan thuộc nền văn hóa Maya.
Tại Nam Colombia và Bắc Ecuador, các kỹ thuật tinh chế và đánh bóng đá quý đã được phát triển dưới nền văn hóa La Tolita (năm 600 -300 trước công nguyên). Tại Peru, người ta cũng đã tìm thấy những chiếc gương làm từ pha lê với dấu hiệu có khung đồng bao xung quanh. Nhiều nơi khác tại Nam Mỹ, các nhà khảo cổ cũng đã tìm được các di tích hình thái chiếc gương được chế tạo và sử dụng.
Chiếc gương của người Olmec tìm thấy tại Nam Mỹ
Vào những năm 1125 đến 130 trước công nguyên tại châu Mỹ, người Olmec đã biết dùng kim loại để chế tạo nên gương soi. Các loại vật liệu thường được dùng là pyrit sắt, obsidian, anthracite. Những cổ vật tìm thấy hiện vẫn đang được trưng bày tại viện bảo tàng tại Mexico City nước Mỹ.
Thời kỳ này, gương được đánh bóng, một số có bề mặt bằng phẳng, nhưng phần lớn gương được chế tạo lõm với độ dài tiêu cự từ 5 đến 80 cm. Theo phân tích cho thấy, những chiếc gương này có thành phần bao gồm: magnetit, hematit, sắt pyrite. Theo các ghi chép tìm được, gương được dùng để tạo ra lửa, y học, bói toán chiêm tinh và thiên văn học.
Người La Mã với chiếc gương thủy tinh đầu tiên và bị cấm trong thời Trung Cổ
Hình vẽ gương của người La Mã
Vào khoảng thế kỷ thứ 1, những chiếc gương bằng thủy tinh đầu tiên đã được người La Mã phát minh. Đây là nhờ vào sự phát minh ra phương pháp thổi thủy tinh vào đầu thế kỷ thứ 1 bới các người làm kính Syria. Ngay từ lần đầu tiên được chế tạo, người ta đã trao cho gương nhiều phẩm chất đặc biệt mà không vật nào có được. Các nhà triết học Hy Lạp đã khuyên những người đàn ông trẻ nên nhìn vào trong gương để luôn giữ cho linh hồn mình trong sạch, tránh xa những cám dỗ trong cuộc sống có thể đưa họ đến con đường sai trái.
Trong thời kỳ Trung Cổ, gương đã hoàn toàn biến mất do các tôn giáo đã cho rằng người ta có thể sử dụng gương để tìm kiếm quỷ dữ và xem được thế giới bên kia. Bấy giờ, ngòi ta phải sử dụng những mảnh kim loại đánh bóng hoặc một mặt nước để thay thế cho gương soi. Lịch sử phát triển của gương đã có một bước lùi do những quan niệm mê tín của con người thời đại này.
Sự trở lại của chiếc gương từ thế kỷ 13
Mãi tới thế kỷ 13, những chiếc gương bằng kính mới quay trở lại thế giới con người. Vào thời gian này, người ta đã tìm được cách tráng thiếc lên thủy tinh. Với công nghệ sẵn có, trong quá trình thổi thủy tinh, người thợ làm kính sẽ đổ thiếc nóng chảy vào một bồn bằng thủy tinh, sau khi thiếc nguội đi, người thợ sẽ tách tấm thiếc ra và đính vào một mặt của tấm thủy tinh. Thời gian này vẫn chưa tìm được cách tráng thiếc lên thủy tinh một cách hoàn chỉnh.
Hình vẽ thợ chế tạo gương tại Venice
3 thế kỷ sau, vào thế kỷ 15 tại Venice, những bậc thầy làm kính đã phát minh ra một kỹ thuật mới nhằm chế tạo gương phẳng bằng cách dùng thủy ngân để tráng lên mặt sau của gương. Họ đã tìm ra được cách tráng thủy tinh lên bề mặt phẳng của gương với một thủ thuật đặc biệt. Bên cạnh dó, những người thợ đã nghĩ ra phương pháp trộn vàng và đồng vào thiếc tạo thành một hỗn hợp đặc biệt để tráng lên gương cho phép hiển thị hình ảnh trong gương đẹp hơn. Cũng chính vì sử dụng hỗn hợp "đặc biệt" như vậy nên chi phí để chế tạo ra một tấm gương thời bấy giờ có thể sanh với việc đóng một chiếc tàu hải quân lớn.
Đến năm 1675, người thợ làm kính George Ravenscroft đã phát minh ra một thế hệ gương mới bằng cách thêm oxit chì vào hỗn hợp thủy ngân tráng gương cho phép chế tạo với giá thành rẻ. Việc phát trưởng gương dừng lại ở phương pháp dùng thủy ngân mãi.
Một cung điện được trang trí tráng lệ bằng gương bọc khung
Sau đó, gương bắt đầu được đón nhận và đi vào cuộc sống của mọi người. Dù vậy, tới thế kỷ 16 thì gương vẫn còn bị một số người xem là vật dụng có liên quan tới phù thủy và các nghi lễ huyền bí. 200 năm sau vào thế kỷ 16, một số điệp viên Tây Ban Nha và Pháp đã dùng gương để mã hóa và giải mã các thông điệp bằng hệ thống mật mã bằng gương do Leonardo da Vinci phát minh hồi thế kỷ 15. Tiếp theo, gương lại trở thành một bộ phận quan trọng trong việc phát minh ra kính tiềm vọng. Loại kính được dùng trong các hoạt động gián điệp trong chiến tranh nhằm gởi thông tin mật về mà không cần dùng con người đưa tin.
Bấy giờ, gương đã trở nên phổ biến với việc sản xuất các khung sang trọng dùng làm vật trang trí cho khắp các cung điện tại Châu Âu. Thời gian này kỹ thuật làm gương vẫn được các thợ làm kính tại Venice nắm giữ và cung cấp chủ yếu cho tầng lớp quý tộc với giá bán cực kỳ đắt đỏ. Tuy nhiên, bí mật của việc dùng thủy ngân tráng gương cuối cùng đã bị các gián điệp công nghiệp phát hiện và lan truyền đén London và Paris vào thế kỷ 17. Cuối cùng, các xưởng làm gương tại Pháp đã công nghiệp hóa quy trình làm gương với giá rẻ phù hợp với mọi người. Dù vậy, độc tính của thủy ngân vẫn là một vấn đề lớn.
Gương hiện đại
Gương hiện đại ngày nay
Những chiếc gương hiện đại ngày nay được làm bằng bạc hoặc phun một lớp bạc hoặc nhôm lên mặt sau của một tấm thủy tinh. Phương pháp chế tạo này được phát minh bởi Justus Von Leibig vào năm 1835. Dù vậy, những tấm gương hiện đại ngày nay thường được chế tạo bằng cách nung nóng nhôm trong chân không và phủ lên bề mặt tấm kính có nhiệt độ thấp hơn. Kể từ đây, kính bắt đầu đi vào mọi khía cạnh trong cuộc sống của con người và dần trở thành một vật dụng không thể thiếu đối với mỗi gia đình.
Kết
Tấm gương đã trải qua một hành trình dài và đầy màu sắc hơn 8000 năm trong lịch sử của con người. Từ tấm gương khổng lồ do mẹ thiên nhiên ban tặng, cho đến những phiến đá được mài nhẵn, rồi những tấm gương bằng đồng trong các lăng mộ cổ, tiếp theo là thủy tinh của người La Mã, phương pháp tráng gương của những nghệ sĩ người Ý và việc công nghiệp hóa thành công của người pháp, cuối cùng là Justus Von Leibig với phương pháp tráng bạc như ngày nay. Cuối cùng thì chúng ta đã có một tấm gương soi hoàn chỉnh.
Về mặt ý nghĩa của gương cũng trải qua bao thăng trầm, từ việc bị coi là vật dụng huyền bí với đủ các thế lực siêu nhiên, từng bị cấm vì có thể triệu hồi quỷ dữ, có khi lại được khuyến khích dùng để nhìn thấu nội tâm của bản thân, rồi được áp dụng trong quân sự hay vật trang trí xa xỉ trong các cung điện. Cuối cùng thì khi xã hội con người văn minh hơn, gương dần trở thành một vật dụng được áp dụng không chỉ trong đời sống con người mà còn trong nhiều nghiên cứu khoa học.
Cuối cùng, chuyến hành trình đi tìm những chiếc gương đầu tiên đã kết thúc. Mình xin dừng lại tại đây. Mong các bạn có một chuyến đi hữu ích. Cám ơn các bạn đã theo dõi chuyên mục "Mỗi tuần một phát minh" kỳ này. Hẹn gặp lại các bạn vào phát minh lần sau, có thể sẽ là một chuyến du hành ngược thời gian cho một vật dụng khác. Xin chào các bạn.
6 thủ thuật với ứng dụng Facebook trên Windows Phone
Ứng dụng Facebook cho Windows Phone là một ứng dụng được Microsoft phát triển để chúng ta có được trải nghiệm Facebook đầy đủ nhất có thể. So với People Hub, ứng dụng Facebook này có khả năng hiển thị nhiều loại thông báo hơn, giao diện quen thuộc hơn (vì có nhiều nét tương đồng với bản nền web cũng như app Facebook trên những nền tảng khác), ngoài ra nó còn hỗ trợ duyệt các nhóm hoặc các trang bạn đã tham gia. Trong quá trình sử dụng app này mình có một vài mẹo nhỏ để chia sẻ với anh em, hi vọng nó sẽ giúp anh em có được trải nghiệm Facebook tốt hơn trên chiếc điện thoại của mình.
1. Bật tính năng hỗ trợ màn hình khóa
Một trong những tính năng hay nhất của app Facebook cho Windows Phone được đó là nó cho phép chúng ta chọn lấy một album của mình trên mạng xã hội này, sau đó chuyển ra làm ảnh nền cho màn hình khóa. Bạn có hai chế độ hiển thị khác nhau để lựa chọn: một hình ảnh lớn chiếm cả lockscreen, hoặc nhiều hình ảnh chiếm một phần màn hình mà thôi.
Để kích hoạt tính năng này, bạn nhấn nút Menu của app Facebook (biểu tượng ba gạch ngang ở góc trên bên trái màn hình) > Cài đặt > Màn hình khóa > Chọn Album, chọn mẫu màn hình khóa rồi nhấn nút Xong ở dưới cùng màn hình. Giờ bạn hãy thử tắt máy và mở lên lại là sẽ thấy được hình ảnh của mình thay đổi.
2. Lắc để làm mới nội dung
Đây cũng là tính năng mình cảm thấy rất thích kể từ khi mình phát hiện ra nó. Bạn chẳng cần phải kích hoạt gì cả, mặc định ứng dụng Facebook cho Windows Phone đã hỗ trợ tính năng này rồi. Và lắc ở đây không có nghĩa là cầm máy rồi giật lên giật xuống đâu nhé. Chỉ cần bạn lắc nhẹ cổ tay tí xíu thôi là được, đủ để máy ghi nhận chuyển động là ổn rồi. Ngay khi vừa lắc xong bạn sẽ thấy một số dấu chấm chạy ngang ở cạnh trên màn hình là app đang làm mới nội dung đó.
Cũng xin nói thêm, đề phòng trường hợp tính năng này không hoạt động, các bạn hãy vào Menu > Cài đặt > Bật rung để làm mới > Bật.
3. Ghim Facebook Messenger ra màn hình Start
Tính năng này có thể mô tả như sau: bạn hay chat với một người nào đó, bạn thân hoặc vợ chẳng hạn. Thông thường, bạn sẽ cần phải chạy app Facebook lên, chờ ứng dụng tải một lúc rồi mở tính năng Messenger được. Việc này mất thời gian quá. Thay vào đó, chúng ta có thể ghim sẵn Messenger ra màn hình Start của Windows Phone, như vậy mỗi khi cần liên lạc thì bạn chỉ việc nhấn một cú chạm duy nhất là đã vào đến giao diện chat rồi.
Để ghim Messenger ra màn hình Start, bạn chạy app Facebook lên, chuyển sang trang Messenger, nhấn biểu tượng hình đinh nghim ở cạnh dưới màn hình là xong.
4. Đừng quên tính năng trượt ngón tay
Ứng dụng Facebook trên Windows Phone có hai menu ẩn, một cái bên phải để hiển thị những người bạn đang online, một cái bên trái dùng khi bạn cần truy cập vào Messenger, album ảnh hoặc duyệt qua các nhóm của mình. Hai menu này có thể được kích hoạt bằng hai nút ở góc trên bên phải và bên trái màn hình, nhưng có một phương pháp nhanh hơn: trượt ngón tay.
Khi đang duyệt News Feed hoặc xem ảnh (hoặc bất kì trang nội dung nào cũng được), bạn hãy trượt ngón tay từ trái sang phải và từ phải sang trái xem. Ngay lập tức các menu nói trên sẽ lộ diện từ cạnh màn hình ra cho chúng ta tương tác, quá nhanh và quá tuyệt vời, chẳng thua kém gì Facebook trên Android và iOS cả. Mình xài Lumia 1520, máy khá to nên sử dụng thao tác trượt này rất thường xuyên bởi vì nếu nhấn nút theo cách truyền thống thì phải với ngón tay rất xa.
Tương tự, khi đang ở News Feed, trong giao diện Notification hay trong lúc chat Messenger, bạn cũng có thể trượt ngón tay từ trên xuống dưới để làm mới trang nội dung tự động, không cần phải nhấn nút nào cả.
5. Thay thế tính năng chat của app bằng Facebook Messenger
Facebook Messenger là trình nhắn tin do Facebook phát triển cho Windows Phone. Khả năng nhắn tin của ứng dụng này tốt hơn 69 lần so với tính năng chat của app Facebook mà Microsoft làm. Do đó, mình xài kết hợp cả hai ứng dụng này để chúng bổ trợ nhau hoàn thành tốt những thứ mình hay làm trên Facebook.
Những điểm mạnh của Messenger so với app của Microsoft đó là nó chạy nhanh hơn, gửi thông báo ổn định và rất đúng lúc, tốc độ làm mới cực kì tốt, bàn phím không tự biến mất sau mỗi lần gửi tin. Ngoài ra, giao diện của Messenger với tông màu xanh dương nhạt cũng đẹp hơn, hiện đại hơn, chưa kể đến việc hỗ trợ tốt các loại sticker nhí nhảnh và cho phép chúng ta tắt thông báo của một cuộc hội thoại nhất định.
6. Tắt thông báo khi dùng Facebook kèm với Messenger
Như đã nói ở trên, Messeger rất tốt và anh em hoàn toàn có thể dùng nó thay thế cho tính năng chat của app Facebook. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ app Facebook và app Facebook Messenger sẽ cùng nhau thông báo khi có tin chat, rất là rối. Bạn cứ thử tưởng tượng xem đang chat với bạn gái đêm khuya mà một cái tin nó nhảy notification đến hai lần ở hai app khác nhau, làm mình phân tâm chẳng thể chat được.
Nếu anh em cũng rơi vào tình huống giống mình thì mình đã có cách giải quyết: tắt thông báo chat của app Facebook đi, chỉ để lại thông báo của Facebook Messenger mà thôi. Để làm việc này, anh em vào Menu > Cài đặt > Thông báo > bỏ chọn mục Tin nhắn đi và nhấn nút Xong ở cạnh dưới màn hình.
[Infographic] Lịch sử của cây bút
Chữ viết là một đóng góp của loài người vào sự phát triển của nền văn minh. Chữ viết giúp chúng ta ghi lại những ý nghĩ và công việc. Trước khi cây bút ra đời thì con người đã sử dụng rất nhiều thứ khác nhau để viết chữ. Ví dụ, như người Nguyên thuỷ đã dùng những hòn đá nhọn đầu để khắc những hình vẽ lên tường hoặc trong hang động, hoặc nhúng những đầu ngón tay vào nhựa cây, hay thậm chí vào máu của động vật rồi vẽ lên những bức tường…
Cây bút đã có những đóng góp quan trọng trong việc con người lưu trữ lại tri thức, là một vật dụng vô cùng hữu ích trong đời sống hàng ngày mà không ai có thể phủ nhận được vai trò của nó. Để có được hình dáng thuận tiện và lâu bền như ngày nay, ít ai biết được nó đã trải qua mấy nghìn năm lịch sử phát triển và cải tiến.
Các mốc phát triển và cải tiến quan trọng của cây bút được tóm lược trong Infographic dưới đây.Nguồn: visual.ly
Đăng ký:
Bài đăng
(
Atom
)