Hiển thị các bài đăng có nhãn Khoa học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Khoa học. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 4 tháng 2, 2014

Smart Tech Foundation mở cuộc thi về công nghệ vũ khí thông minh để giảm bạo lực súng đạn tại Mỹ

Smart-Tech-Foundation.

Trong khi các giải pháp bằng pháp luật nhằm hạn chế tình trạng bạo lực súng đạn tại Mỹ vẫn đang là chủ đề nóng thì Smart Tech Foundation - một tổ chức được thành lập nhằm khích lệ các giải pháp thương mại tự do đối với vấn đề an toàn vũ khí cầm tay lại mở ra một hướng giải quyết khác. Thông qua cuộc thi Smart Tech for Firearms Challenge, Smart Tech Foundation tin rằng việc loại bỏ các tranh cãi chính trị và khuyến khích những cải tiến về công nghệ súng thông mình sẽ là một phương pháp khả thi hướng đến một xã hội an toàn hơn.

Được phát động tại California trong tuần qua, cuộc thi mang tầm quốc tế của Smart Tech Foundation sẽ chia làm 4 nội dung tương ứng với 4 yếu tố quan trọng trong nổ lực giảm thiểu bạo lực súng đạn. Phần thưởng cho người chiến thắng sẽ là khoảng tài trợ 1 triệu USD và tiền thưởng cho từng danh mục.

Nội dung đầu tiên hiện đang được mở cửa cho mọi ứng viên tham gia là Smart Tech for Firearms. Ở nội dung này, ứng viên sẽ tập trung phát triển các công nghệ được cấp phép sử dụng hợp pháp. Với 1,4 triệu khẩu súng bị mất cắp trong thời gian từ năm 2005 đến năm 2010 theo thống kê của Cục thống kê tư pháp (BJS) Hoa Kỳ thì việc ngăn chặn số vũ khí này rơi vào tay của các đối tượng tội phạm hoặc vô hiệu hoá chúng đã trở thành một phần quan trọng trong tầm nhìn chiến lược của tổ chức.

3 nội dung còn lại sẽ được khởi tranh vào cuối năm nay bao gồm: Smart Tech for Big Data - tìm cách tối ưu hoá các tuyến đường tuần tra cho lực lượng thi hành pháp luật và phát hiện các vụ nổ súng bằng việc sử dụng cơ sở dữ liệu và phương pháp phân tích tiên đoán; tiếp theo là Smart Tech for Brain Health - thúc đẩy sự đổi mới trong "lĩnh vực sức khoẻ tâm thần, thần kinh và tối ưu hoá các biện pháp can thiệp"; cuối cùng là Smart Tech for Community Safety - tập trung vào khả năng phản ứng trước các tình huống giao tranh, bạo động và thành lập các mạng lưới cảnh báo dựa trên đám đông để đảm bảo an toàn cho các trường học và cộng đồng.

Súng ngắn thông minh Armatix từng được giới thiệu năm 2010 có thể xem là một ví dụ về công nghệ vũ khí tham gia dự thi. Khẩu súng nhận biết người dùng qua một cảm biến vân tay tích hợp trên một chiếc vòng đeo tay đặc biệt. Thông tin nhận dạng sẽ được gởi đến súng và cho phép người dùng sử dụng.

Bằng cách trao thưởng lớn cho các giải pháp công nghệ vũ khí an toàn, Smart Tech Foundation tin rằng họ có thể tạo nên một đất nước an toàn hơn mà không làm ảnh hưởng đến các hiến pháp có giá trị đối với nhiều người.

Trên trang web chính thức, Smart Tech Foundation nêu rõ: "Với việc thúc đẩy sự phát triển của các giải pháp thương mại tự do nhằm giảm thiểu tình trạng bạo lực súng đạn, chúng tôi có thể tăng tốc quá trình phát triển các công nghệ tiên tiến để khiến nước Mỹ an toàn hơn mà không thay đổi Tu chính án số 2 (2nd Amendment) của hiến pháp Mỹ về quyền lưu trữ súng và mang súng của công dân Mỹ."

Nội dung Smart Tech for Firearms sẽ tiếp tục nhận ứng viên tham gia dự thi cho đến hết ngày 31 tháng 3 năm 2014. Các nội dung còn lại sẽ được triển khai cho đến hết năm.

Theo: Gizmag
Nguồn: Smart Tech Foundation

Thứ Năm, 26 tháng 12, 2013

Các nhà nghiên cứu đảo ngược thành công quá trình lão hoá trên chuột, năm sau thử nghiệm trên người

lão-hoá.

Với nhiều lợi ích trong việc giảm thiểu các chứng bệnh và kéo dài tuổi thọ, tăng cường sức khoẻ, chống lão hoá luôn là tâm điểm của các nghiên cứu y học. Và mới đây, một dự án hợp tác giữa đại học New South Wales (UNSW) tại Úc và trường y Harvard đã chứng minh rằng việc phục hồi giao tiếp bên trong các tế bào động vật có tiềm năng đảo ngược các tác nhân gây lão hoá và thậm chí còn hơn thế nữa. Các nhà nghiên cứu hy vọng hoạt động thử nghiệm lâm sàng trên người sẽ được thực hiện ngay trong năm sau và những phát hiện y học mới cũng có thể được khai phá từ nghiên cứu này.

Các nhà nghiên đã tìm cách đảo ngược các tác nhân lão hoá trên chuột bằng việc áp dụng phương pháp phục hồi giao tiếp giữa ty thể và nhân của một tế bào. Ty thể (Mitochondria) là bào quan phổ biến ở các tế bào nhân chuẩn có lớp màng kép và hệ gene riêng. Nó là nguồn cung cấp năng lượng bên trong tế bào với khả năng tạo ra năng lượng hoá học hữu ích cần cho các hoạt động sinh học quan trọng của tế bào. Khi giao tiếp giữa ty thể và nhân - trung tâm điều khiển của tế bào bị phá vỡ, các tác nhân lão hoá bắt đầu gia tăng.

ty-thể.
Ty thể dưới kính hiển vi.​

Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi giáo sư David Sinclair đến từ khoa y thuộc UNSW đã phát hiện ra rằng với việc phục hồi giao tiếp phân tử, quá trình lão hoá không chỉ có thể được làm chậm mà còn bị đảo ngược. Kỹ thuật này có thể áp dụng để chữa trị ung thư, tiểu đường tuýp 2, suy yếu cơ, các chứng viêm và những loại bệnh liên quan đến ty thể.

Nghiên cứu trên dựa theo một nghiên cứu trước đó cho thấy việc tập thể dục và duy trì các thói quen ăn kiêng như hạn chế calorie hoặc lượng resveratrol (có trong rượu vang đỏ và quả hạch) sẽ làm chậm sự phá vỡ kết nối trong tế bào, cũng như quá trình lão hoá.

Giao tiếp nội tế bào bị phá vỡ do sự suy giảm của một chất hoá học có tên NAD - chất tự suy giảm ở mọi tế bào trong cơ thể động vật theo tuổi tác. Và bằng cách tăng hàm lượng của một hợp chất được tế bào sử dụng để tạo ra NAD, giáo sư Sinclair đã nhận ra rằng ông có thể nhanh chóng sửa chữa chức năng của ty thể.

Đồng tác giả nghiên cứu, bác sĩ Nigel Turner đến từ khoa dược lý thuộc đại học UNSW cho biết: "Điều đó xảy ra quá nhanh. Chỉ trong một tuần trước quá trình lão hoá, nhờ việc kiểm soát hợp chất sản sinh NAD, các cơ của một con chuột già đã được phục hồi và gần như không thể phân biệt với các con chuột trẻ hơn."

Khi tìm kiếm các dấu hiệu kháng insulin, kháng viêm và suy giảm cơ, các nhà nghiên cứu nhận thấy mô của một con chuột 2 năm tuổi được điều trị bằng phương pháp trên chỉ trong 1 tuần không khác gì so với một con chuột 6 tháng tuổi. Họ cho biết điều này có thể so sánh với 1 người 60 tuổi và 1 thanh niên 20 tuổi về mặt cơ bắp.

Ngoài ra, khi áp dụng liệu pháp kiểm soát hợp chất sản sinh NAD tương tự trên một con chuột trẻ, nó cũng trở nên khoẻ hơn. Qua đó gợi ý rằng kỹ thuật xử lý hợp chất có thể mang lại nhiều lợi ích cho những người còn trẻ và khoẻ mạnh.

Một phát hiện đáng chú khác là tiềm năng áp dụng điều trị ung thư liên quan đến củat hoá học HIF-1. Đây là một chất hoá học chịu trách nhiệm phá vỡ giao tiếp bên trong tế bào và được cơ thể tạo ra tự nhiên khi bị mất oxy. Ung thư được cho là một tác nhân kích hoạt HIF-1 và các nhà nghiên cứu giờ đây đã phát hiện ra rằng hoá chất này cũng bị kích hoạt trong quá trình lão hoá.

Ana Gomes - nghiên cứu sinh tiền tiến sĩ tại phòng thí nghiệm của Sinclair cho biết: "Điều quan trọng là chúng tôi đã tìm thấy một phân tử bị kích hoạt bởi nhiều loại ung thư cũng có thể bị kích hoạt bởi quá trình lão hoá. Hiện tại, chúng tôi đang bắt đầu tìm hiểu xem liệu các đặc tính sinh lý của ung thư theo nhiều khía cạnh có tương đồng với đặc tính sinh lý của lão hoá hay không. Có lẽ điều này sẽ lý giải cho tại sao nguy cơ cao nhất của ung thư chính là tuổi tác."

Trước mắt, các nhà nghiên cứu vẫn đang tìm kiếm những hiệu quả dài hạn của hợp chất sản sinh NAD trên chuột và những tác động tích cực đến sức khoẻ và tuổi thọ của chuột. Họ hy vọng các thử nghiệm lâm sàng trên người sẽ được thực hiện vào cuối năm 2014.

Giáo sư Sinclair nói: "Vẫn có rất nhiều việc phải làm ở đây nhưng nếu những kết quả trên vẫn được duy trì thì quá trình lão hoá có thể được đảo ngược nếu nó được phát hiện sớm."

Theo: Gizmag
Nguồn: UNSW; Harvard

Thứ Ba, 24 tháng 12, 2013

Các nhà nghiên cứu phá thành công khóa mã hóa an toàn nhất hiện nay bằng âm thanh

tấn-công-âm-thanh.

Mới đây, các nhà nghiên cứu tại đại học Tel Aviv và viện khoa học Weizmann (Israel) đã thành công trong việc giải mã một trong những thuật toán mã hóa an toàn nhất hiện nay là RSA 4096 bit bằng cách dùng microphone để lắng nghe một chiếc máy tính khi nó giải mã dữ liệu đã mã hóa. Cuộc tấn công của các chuyên gia bảo mật khá đơn giản và có thể được thực hiện với các phần cứng thô sơ.

Daniel Genkin, Adi Shamir (2 nhà đồng sáng lập thuật toán RSA) và Eran Tromer đã sử dụng một kỹ thuật có tên gọi "side channel attack" (tấn công kênh bên) để giải mã âm thanh. Một kênh bên (side channel) là một kênh tấn công trung gian, khác thường và không đảm bảo bảo mật. Có thể hình dung như sau, trên điện thoại bạn đặt mật mã số để khóa máy. Bạn đưa điện thoại cho 1 ai đó thì người ta không thể trực tiếp xâm nhập vào bên trong nếu không có mã số. Tuy nhiên, nếu họ có thể đoán mật khẩu bằng cách nhìn vào các vết vân tay, vết dơ trên màn hình để mở khóa thì đây là một kênh bên. Trong trường hợp này, các nhà nghiên cứu bảo mật đã lắng nghe âm thanh tần số cao (từ 10 đến 150 KHz) do máy tính tạo ra khi nó giải mã dữ liệu.

Nghe có vẻ điên rồ nhưng với những phần cứng phù hợp, điều này hoàn toàn có thể xảy ra. Để khởi đầu, bạn cần biết chính xác tần số âm thanh để lắng nghe và sử dụng các bộ lọc tần số cao/thấp để đảm bảo chỉ nghe những âm thanh phát ra từ máy tính khi CPU giải mã dữ liệu. Trên thực tế, tín hiệu âm thanh được tạo ra bởi bộ điều áp của CPU khi nó cố gắng duy trì điện áp không đổi trong nhiều điều kiện xử lý nặng nhẹ khác nhau. Sau đó, một khi bạn đã có được tín hiệu, bạn sẽ giải mã tín hiệu thành thông tin có nghĩa.

tấn-công-âm-thanh-2.
Ảnh phổ đo tần số âm thanh của các hoạt động khác nhau của CPU được microphone Bruel&Kjaer 4939 ghi lại. Trục hoành là tần số (0 - 310 kHz), trục tung là thời gian (3,7 giây) và mật độ là tỉ lệ tương ứng với mức năng lượng tức thời trong băng tần.

Các nhà nghiên cứu đã tập trung vào một phần mềm mã hóa rất đặc trưng có tên GnuPG 1.x (một phiên bản nguồn mở/miễn phí của PGP hay Pretty Good Privacy - phần mềm mã hóa và giải mã dữ liệu bảo mật. PGP thường được dùng cho các khâu đăng nhập, mã hóa và giải mã văn bản, email, tập tin, thư mục và cả phân vùng ổ đĩa. PGP được tạo ra bởi Phil Zimmermann vào năm 1991). Bằng một số phép phân tích giải mã thông minh, các nhà nghiên cứu đã có thể lắng nghe tín hiệu rò rỉ từ CPU khi nó đang giải mã dữ liệu. Sau đó, họ tiếp tục nghe các luồng âm thanh để tiến đoán khóa giải mã. Phương pháp tấn công này không hoạt động trên các hệ mã hóa hoặc phần mềm mã hóa khác. Nếu muốn thực hiện, họ phải bắt đầu lại từ đầu và nghe lại toàn bộ âm thanh rò rỉ.

Kết quả từ hoạt động tấn công trên là họ đã thành công trong việc giải mã các khóa mã hóa trong một khoảng cách 4 m với một chiếc microphone chất lượng cao hình chảo parabol. Hấp dẫn hơn, họ còn tìm cách thực hiện cuộc tấn công với một chiếc smartphone để cách chiếc laptop 30 cm. Nhóm nghiên cứu đã thực hiện cuộc tấn công trên nhiều chiếc laptop và desktop khác nhau với nhiều cấp độ thành công. Điều đáng chú ý là dữ liệu điện cùng loại có thể được dự đoán từ nhiều nguồn - chẳng hạn như từ jack cắm điện trên tường, từ đầu cuối của sợi cáp Ethernet hoặc chỉ đơn thuần là chạm vào chiếc máy tính.

tấn-công-âm-thanh-3.
Thiết lập cơ bản với máy tính A đang giải mã và microphone B, các thành phần khác có thể được giấu đi.​

Trên thực tế, hoạt động giải mã qua tín hiệu âm thanh thực sự là một mối nguy hiểm tiềm năng. Thử nghĩ nếu như bạn đang giải mã một số tập tin trên máy tính trong khi đang ngồi ở thư viện, quán café, hay một địa điểm công cộng … ai đó có thể lấy được khóa mã hóa của bạn chỉ đơn giản bằng cách đặt chiếc điện thoại của họ gần chiếc máy tính mà bạn đang dùng. Thêm nữa, một kẻ tấn công có thể sử dụng tín hiệu âm thanh để đưa malware vào điện thoại của bạn để lắng nghe các khóa mã hóa. Với việc mã HTML5 và Flash có thể được truy xuất vào phần cứng như microphone, kẻ tân công hoàn toàn có thể phát triển một trang web để lắng nghe khóa mã hóa. Các nhà nghiên cứu tậm chí còn nghĩ ra một kịch bản khủng khiếp hơn: Đặt một chiếc microphpne vào một máy chủ - chiếc máy chủ này đặt trên giá cùng với các máy chủ khác trong một trung tâm dữ liệu và microphone sẽ âm thầm thu thập khóa mã hóa từ hàng trăm máy chủ gần đó.

Nếu bạn muốn đảm bảo dữ liệu được an toàn, chỉ có 2 lựa chọn: 1 là mã hóa cực mạnh, 2 là bảo vệ dữ liệu theo phương pháp vật lý hoặc cả 2 giải pháp cùng lúc. Nếu một kẻ tấn công không thể tiếp cận vật lý với dữ liệu, dĩ nhiên khả năng đánh cắp khóa mã hóa sẽ khó khăn hơn. Vì vậy, trước những cuộc tấn công qua âm thanh tiềm tàng, bạn có thể sử dụng các giải pháp bảo vệ vật lý như đặt laptop vào các hộp cách ly âm thanh, không để ai lại gần máy tính khi đang giải mã dữ liệu hoặc sử dụng các nguồn âm thanh băng rộng tần số đủ cao để gây nhiễu.

Tấn công máy tính bằng âm thanh là một vấn đề đang được quan tâm trong thời gian gần đây. Ngay tháng trước, chúng ta đã được biết đến một loại malware có tên BadBiOS, phá hoại phần sụn và lây nhiễm từ máy này sang máy khác qua loa.

Theo: ExtremeTech

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013

[Mỗi tuần 1 phát minh] Lịch sử chiếc máy tính bỏ túi

banner.

Chiếc máy tính bỏ túi là dụng cụ học tập quen thuộc đối với nhiều thế hệ học sinh - sinh viên. Ngoài một công cụ hỗ trợ đắc lực trong việc học tập và thi cử, máy tính còn được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khác như kinh doanh, tài chính và trong nhiều lĩnh vực chuyên môn khác. Một thiết bị đơn giản có thể thay thế bạn tính toán những phép tính đơn giản mà không cần dùng phương pháp truyền thống là viết ra giấy hay tính nhẩm. Máy tính giúp con người thực hiện được các phép tính chính xác và nhanh chóng hơn. Đằng sau thiết bị hữu ích và đơn giản này là cả một quá trình nghiên cứu, cải tiến và chế tạo từ đơn giản đến phức tạp của nhiều nhà phát minh. Chuyên mục "mỗi tuần 1 phát minh" tuần này mời các bạn ngược thời gian về 2000 năm về trước và cùng nhìn lại lịch sử phát triển của thiết bị hữu ích này từ chiếc bàn tính sơ khai ban đầu đến chiếc máy tính khoa học chuyên dụng nhé.

Máy tính cơ học - Tiền thân của máy tính điện tử

Công cụ tính toán số học đầu tiên được biết đến là chiếc bàn tính (Abucus) được sử dụng bởi những người Sumer, người và người Ai Cập vào 2000 năm trước công nguyên. Sau đó, bàn tính được sử dụng rộng rãi ở các nước Châu Á, châu Phi và nhiều vùng lãnh thổ khác chủ yếu bởi các thương nhân.

01 ban tinh.
Chiếc bàn tính của người La Mã

Đến thời kỳ Phục Hưng, năm 1642, thiên tài toán học Blaise Pascal (1623-1662) phát minh ra máy tính cơ học, thiết bị đầu tiên có thể thực hiện các phép tính cơ bản mà không cần sử dụng trí tuệ của con người. Thiết bị có thể thực hiện trực tiếp phép tính cộng và trừ, phép nhân và chia được thực hiện theo phương pháp lặp lại nhiều lần phép cộng.

02 Metiers_Pascaline_dsc03869.
Máy đếm của Pascal có kèm theo chữ ký của ông vào năm 1652

Video mô tả cách hoạt động của máy đếm Pascal

Theo sau Pascal là Gottfried Leibniz (1646-1716), nhà toán học người Đức đã dành 40 năm để thiết kế máy tính cơ học có thể thực hiện được 4 phép tính cơ bản cộng, trừ, nhân, chia một cách trực tiếp. Công trình của ông chỉ dừng lại ở bánh xe Leibniz mà chưa đưa ra được một cỗ máy tính toán hoàn thiện. Bánh xe Leibniz là một ống hình trụ với các rãnh bên ngoài có độ dài tăng dần được dùng để đếm số lần quay của bánh răng. Bánh xe Leibniz nổi tiếng này được tiếp tục sử dụng rộng rãi trong các máy tính cơ khí cho đến khi máy tính điện tử ra đời.

03 Cylindre_de_Leibniz_animé.
Hoạt động của bánh xe Leibniz

Đến thế kỷ 18, thế giới chứng kiến được nhiều cải tiến thú vị từ chiếc máy tính cơ ban đầu. Đặc biệt phải kể đến là chiếc đồng hồ tính toán có khả năng thực hiện được 4 phép tính của Giovanni Poleni (1683-1761), một nhà vật lý và toán học người Ý, nhưng đây chỉ là một đóng góp cho sự phát triển của máy tính chứ chưa phải là một thiết bị hoàn chỉnh. Mãi cho đến thế kỷ 19 với cuộc các mạng công nghiệp mới là thời kỳ máy tính cơ được phổ biến rộng rãi. Thời gian này, những chiếc máy tính cơ trong quá khứ được đưa vào sản xuất công nghiệp với số lượng lớn và mẫu mã hiện đại hơn.

Đến năm 1820, máy đếm còn gọi là máy cộng dồn tích (Arithmometer hoặc Arithmomètre) được phát minh bởi nhà nhà phát minh người Pháp Thomas de Colmar (1785-1870). Đây là chiếc máy tính cơ đầu tiên đủ mạnh và độ tin cậy để sử dụng trong công việc hàng ngày tại các văn phòng. Thiết bị được cấp bằng sáng chế vào 1820 và sản xuất thương mại từ năm 1851. Arithmometer có thể thực hiện được chuỗi các phép cộng và trừ một cách trực tiếp, thực hiện phép nhân số lớn và cho ra kết quả được dồn tích và ghi trên một dải ruy băng. 40 năm sau, tính đến năm 1890 đã có khoảng 2500 chiếc máy đếm được sản xuất thương mại và bán ra thị trường. Đây là bước tiến quan trọng trong quá trình chuyển tính toán bằng trí tuệ con người sang sử dụng máy móc vào nửa sau thế kỷ 19.

04 Arithmometre.
Máy cộng dồn tích Arithmomètre

Năm 1902, chiếc máy tính đầu tiên có sử dụng phím bấm mang tên Máy cộng Dalton được phát minh bởi nhà phát minh người Mỹ James L. Dalton (1833-1887).

05 dalton_178529_kuva_126_iso.
Máy tính có phím bấm đầu tiên của Dalton

Năm 1948, Curt Herzstark (1902-1988), một kỹ sư người Australia đã phát minh ra máy tính cơ Curtas có khả năng thực hiện được 4 phép tính cơ bản, đồng thời có thể thực hiện được phép rút căn bậc 2 và một số phép toán khác dù khá khó khăn. Máy tính cơ Curtas kế thừa bánh xe đếm nổi tiếng của Leibniz kết hợp với máy đếm của Thomas để tạo nên một thiết bị tính hình trụ nhỏ gọn trong lòng bàn tay được vận hành bằng một tay quay phía trên. Dù giá thành sản xuất khá đắt tiền, Curtas được xem là máy tính cơ xách tay tốt nhất mãi cho đến sự ra đời của máy tính điện tử sau này.

06 Curta_-_National_Museum_of_Computing.
Máy tính cơ Curtas của Curt Herzstark

Video phương pháp hoạt động của máy tính cơ Curtas

Sự ra đời của máy tính điện tử:

Các máy tính cỡ lớn đầu tiên có sử dụng ống chân không và sau đó là các transistor để giải các thuật toán logic xuất hiện vào những năm 1940 đến 1950. Công nghệ này là bước tiến vĩ đại cho sự hình thành của máy tính điện tử.

Vào năm 1957, công ty máy tính điện tử Casio, Nhật Bản cho ra đời máy tính Model 14-A. Đây là máy tính điện tử toàn phần với thiết kế nhỏ gọn đầu tiên trên thế giới. 14-A không sử dụng logic điện tử mà dựa trên công nghệ chuyển tiếp được tích hợp vào bàn điều khiển để giải quyết các phép tính.

07 CASIO_14-A.
Hình ảnh chiếc máy tính Casio Model 14-A

Đến tháng 11 năm 1961, ANITA (A New Inspiration To Arithmetic/Accounting) máy tính giao diện điện tử toàn phần đầu tiên trên thế giới được công bố bởi công ty máy tính thương mại Anh Bell Punch. Cỗ máy này sử dụng các ống chân không, ống ca-tôt lạnh và Dekatron (ống khí đếm 3 giai đoạn) để giải quyết các phép toán. Màn hình hiển thị được chế tạo từ 12 ống ca-tôt lạnh tạo thành đèn Nexie. 2 Model của ANITA là MK VII và MK VIII được phổ biến rộng rãi khắp châu Âu và nhiều nơi trên thế giới vào đầu năm 1962. MK VII có thiết kế nhẹ và thực hiện được các phép nhân phức tạp. Sau đó MK VIII ra đời với thiết kế và cách vận hành đơn giản hơn. Tuy ANITA có đầy đủ bàn phím và áp dụng các thiết bị điện tử để thực hiện phép tính, nhưng vẫn hoạt động dựa trên nguyên lý đếm của các máy tính cơ đương thời. Chính vì lẽ đó, đến khi máy tính điện tử sử dụng thuật toán logic ra đời, ANITA nhanh chóng bị chìm vào quên lãng.

08 674px-AnitaMk8-01.
Hình ảnh chiếc máy tính ANITA MK VIII

Đến năm 1963, công nghệ ống ca-tôt chân không của công ty Bell Punch được nhà sản xuất Friden của Mỹ thay thế bằng phương pháp sử dụng các transistor. Nhà sản xuất Friden cho ra đời mẫu máy tính EC-13 với màn hình CRT 13 cm hiển thị được 13 ký tự. EC-13 được giới thiệu đến thị trường với các ký pháp RPN (reverse Polish notation - Ký pháp toán học Ba Lan ngược) với giá 2200 USD, đắt hơn gấp 3 lần so với các máy tính cơ đương thời.

09 a-fri130intro-2.
Máy tính Friden C-13 của nhà sản xuất Friden

Video sử dụng máy tính Friden

Năm 1964, máy tính CS-10A sử dụng số lượng transistor lớn hơn được công ty Sharp giới thiệu. CS-10A nặng 25 kg và được bán ra thị trường với giá 500.000 Yên (khoảng 2500 USD). Cùng thời gian đó, công ty sản xuất máy công nghiệp Elttroniche của Ý giới thiệu máy tính IME 84 với bàn phím được bổ sung thêm và trang bị màn hình rộng hơn.

Tiếp theo đó là hàng loạt các mô hình máy tính điện tử đến từ các nhà sản xuất như Canon, Mathatronics, Olivetti, SCM (Smith-Corona-Marchant), Sony, Toshiba, và Wang. Các mẫu máy tính thời gian này đều sử dụng các transistor germanium (có giá rẻ hơn transistor silicon) gắn trên các bảng mạch điện tử. Các loại màn hình được sử dụng bao gồm màn hình CRT, ống ca-tôt lạnh và đèn filament. Máy tính thường sử dụng bộ nhớ trễ hoặc lõi từ tính. Bên cạnh đó, Toshiba cho ra đời máy tính Toscal BC-1411 sử dụng thành phần bộ nhớ hoạt động tương tự như một hệ thống RAM được ghép từ các linh kiện rời rạc. BC-1411 có thiết kế nhỏ gọn hơn và tiêu thụ năng lượng ít hơn.

10 toshbc1411.
Hình ảnh chiếc máy tính Toscal BC-1411 của Toshiba

Năm 1965, công ty Olivetti giới thiệu Olivetti Programma 101, một máy tính chứa chứa chương trình được soạn sẵn cho phép đọc và ghi lên một thẻ từ đồng thời in kết quả thông qua một máy in được tích hợp bên trong. Programma được trang bị bộ nhớ, dây trễ âm có khả năng thực hiện thuật toán được lập trình sẵn qua từng bước, tích hợp sẵn các hàm số và có khả năng ghi dữ liệu. Programma 101 còn có khả năng đọc và ghi dữ liệu lên một thẻ từ. Đây chính là chiếc máy tính cá nhân đầu tiên (máy tính được lập trình sẵn cho những người dùng không biết lập trình) và đã được trao tặng nhiều giải thưởng công nghiệp.

11 Olivettiunderwood_programma101.
Máy tính Programma 101 của Olivetti

Một mẫu máy tính khác được giới thiệu vào năm 1965 là Bulgaria's ELKA 6521 được phát triển bởi Học viện công nghệ máy tính và được chế tạo tại nhà máy Elektronika, Sofia. ELK 6521 nặng 8 kg và là máy tính đầu tiên trên thế giới có thể thực hiện chính xác phép rút căn bậc 2. Cuối năm 1965, ELKA 22 ra đời với màn hình huỳnh quang và tiếp theo đó là ELKA 25 với máy in kết quả được tích hợp sẵn. Một số mẫu thiết kế sau đó với các cải tiến cũng được sản xuất cho đến khi ELKA 101 ra đời vào năm 1974 dù trọng lượng máy vẫn còn khá nặng.

12 508px-Elka6521.
Mẫu máy tính Bulgaria's ELKA 6521

Cuối cùng, vào năm 1967, công ty máy tính vẫn còn nổi tiếng cho đến ngày nay là Texas Instrument đã phát triển máy tính mang tên Cal Tech có khả năng thực hiện 4 phép tính cơ bản và ghi kết quả hiển thị trên một băng giấy. Cal Tech chính là chiếc máy tính cầm tay đầu tiên trên thế giới với khả năng tính toán chính xác và đáng tin cậy.

13 CAL-TECH_M2.
Máy tính "Cal Tech" của công ty nổi tiếng Texas Instrument

Giai đoạn thập niên 1970 đến 1980: Máy tính đã có thể bỏ túi!

Nếu các máy tính ở những năm 1960 với kích thướt lớn, sử dụng hàng trăm bóng bán dẫn trên nhiều bảng mạch, sử dụng nguồn điện 1 chiều, tiêu thụ lượng điện năng lớn thì trong giai đoạn 1970, sự ra đời của vi mạch và các chip điện tử là một giải pháp vô cùng đáng giá. Các nhà sản xuất đã nỗ lực tạo nên các bảng vi mạch với các bóng bán dẫn kích thướt nhỏ được tich hợp sẵn bên trong cho phép tạo nên các máy tính với kích thước nhỏ gọn hơn. Từ đó đã hình thành nên các liên minh công nghệ giữa Nhật và Mỹ bao gồm: Canon Inc. với Texas Instruments, Hayakawa Electric (sau này là tập đoàn điện tử Sharp) với Công ty vi điện tử Bắc Mỹ Rockwell, Busicom với Mostek và Intel, và General Instrument với Sanyo. Các liên minh công nghẹ đã tạo nên máy tính có kích thướt nhỏ và tiêu thụ điện năng ít hơn, có thể sạc được.

Tiếp theo thành công của Texas Instruments là các máy tính cầm tay có khả năng sạc đến từ Nhật Bản. Đó là "máy tính mini" ICC-0081 của Sanyo, Pocketronic của Canon và "Micro Compet" QT-8B của Sharp. Trong số các máy tính nêu trên, Pocketronic không có màn hình hiển thị. Thay vào đó, kết quả tính toán được in trực tiếp lên giấy nhiệt.

Bằng nỗ lực rất lớn trong việc tạo nên máy tính kích thước nhỏ và tiêu thụ ít điện năng, năm 1971, Sharp cho ra đời máy tính Sharp EL-8 (còn có tên gọi khác là Facit 1111) với kích thướt nhỏ gọn, chỉ nặng 155 gram, trang bị màn hình huỳnh quang chân không và sử dụng pin NiCad có thể sạc được. EL-8 được bán ra thị trường với giá 395 USD.

14 Sharp_EL-8.JPG
Máy tính Sharp EL-8

Tiếp theo, vào năm 1971, Pico Electronic và General Instrument cho ra đời máy tính sử dụng IC được tích hợp chỉ một chip xử lý duy nhất mang tên Monroe Royal Digital III. Đây chính là thành công vượt bậc trong việc chế tạo các máy tính nhỏ gọn có thể bỏ túi.

15 moral .
Máy tính nhỏ gọn Monroe Royal Digital III

Cuối cùng, chiếc máy tính có thể thật sự có thể bỏ túi đã ra đời vào năm 1971. Đó là mẫu máy tính LE-120A do công ty Busicom của Nhật sản xuất. LE-120A "HANDY" là máy tính đầu tiên được trang bị màn hình LED hiển thị kết quả. Đây cũng là máy tính cầm tay đầu tiên sử dụng 1 vi xử lý duy nhất để giải quyết các thuật toán.

16 LE 120 A.
Máy tính bỏ túi LE-120A HANDY của Busicom

Tiếp theo thành công của LE-120A là mẫu máy tính Mostek MK-6010, máy tính đầu tiên sử dụng pin 4 pin AA có thể thay thế được. MK6010 có kích thướt 124x72x24 mm, kích thướt nhỏ gọn nhất thời bấy giờ.

18 MOstek MK 6010 calc.
Máy tính đầu tiên sử dụng pin AA, Mostek MK-6010

Trong khi đó, năm 1972, Hewlett packard (HP) cho ra đời mẫu máy tính bỏ túi HP-35 với giá 395 USD. HP-35 không sử dụng phương pháp nhập liệu đầu vào thông thường, đây là mẫu máy tính điện tử bỏ túi đầu tiên sử dụng ký pháp RPN (còn gọi là ký hiệu tiền tố) để thực hiện các phép tính khoa học. Đây là phương pháp theo chuẩn tính toán của người Do Thái, nếu muốn thực hiện phép tính "8 cộng 5", theo phương pháp thường, người ta gõ các phím theo thứ tự [8], [+], [5], [=]. Nhưng theo hệ RPN, ta gõ [8], [Enter|], [5], [+] và kết quả sẽ được hiển thị.

19 HP_35_Calculator.
Máy tính HP-35

Năm 1973, Sinclair Cambridge, chiếc máy tính giá rẻ đầu tiên được bán ra với giá chỉ có 29,95 Bảng Anh. Tuy nhiên, do được sản xuất với giá thành rẻ nên Sinclair vấp phải vấn đề về tính chính xác của kết quả, đặc biệt là khi tính toán các hàm số siêu việt. Cũng trong thời gian này, Texas Instrument cho ra đời máy tính khoa học SR-10 được bổ sung thêm khả năng tính toán theo biến "n" và sau đó là mẫu SR-50 với khả năng tính toán hàm số logarit và lượng giác để cạnh tranh với HP-35. Cả 2 mẫu máy tính khoa học của Texas Instruments và HP đều được tiếp tục phát triển và sản xuất cho đến ngày nay.

20 Sinclair_cambridge_17o06.
Máy tính giá rẻ đầu tiên SInclair Cambridge

Năm 1978, một công ty mới là Calculated Industries nhảy vào thị trường sản xuất máy tính khoa học với các mẫu máy dành riêng cho từng lĩnh vực cụ thể. CI đã cho ra đời các mẫu máy Loan Arranger dành cho các hàm tài chính, Construction Master dùng để tính toán các thông số tiêu chuẩn chuyên ngành xây dựng.

Giai đoạn giữa những năm 1980 đến nay

Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ cho phép các nhà sản xuất chế tạo máy tính khoa học giá rẻ. Các máy tính thông thường với các chức năng tính toán cơ bản chỉ có giá vào khoảng vài USD nhưng vẫn cho phép thực hiện các phép tính một cách chính xác và đáng tin cậy.

21 HP-28C-M.JPG
Máy tính HP-28C có thể giải phương trình bậc 2

Năm 1987, máy tính HP-28C ra đời. Đây là máy tính đầu tiên sử các ký hiệu toán học để tính toán và giải phương trình bậc 2. Năm 1985, máy tính đầu tiên có khả năng vẽ đồ thị theo một hàm số cho trước là Casio FX-7000G được ra mắt.

22 Casio_fx-7000G_Box&Manual.JPG
Máy tính vẽ đồ thị đầu tiên - Casio FX-7000G

Hai nhà sản xuất máy tính tiên phong là HP và TI liên tục cho ra mắt các máy tính khoa học được cải tiến, bổ sung thêm chức năng từ năm 1980 đến những năm 1990.

Bước sang thế kỷ 21, ranh giới giữa máy tính đồ họa và một máy vi tính xách tay ngày càng mong manh hơn. Các máy tính khoa học hiên đại như TI-89, Voyage 200 và HP-49G đều có thể tính toán được các hàm vi phân và tích phân, giải được các phương trình vi phân, xử lý các chuỗi ký tự và chạy phần mềm quản lý dữ liệu cá nhân. Các máy tính còn được trang bị kết nối không dây và cổng hồng ngoại để giao tiếp với máy vi tính hay các máy tính khoa học khác.

Máy tính tài chính HP-12C ra đời vào năm 1981 với nhiều nhiều chức năng hữu ích vẫn còn được tiếp tục sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay. HP-12C vẫn trung thành với phương pháp nhập liệu tiền tố RPN. Cho đến năm 2003, hàng loạt các phiên bản cải tiến của HP-12C được sản xuất. Nổi bật nhất là phiên bản "HP-12C platinum edition" được trang bị nhiều bộ nhớ hơn, tích hợp sẵn nhiều hàm tài chính và thêm vào đó là chế độ nhập dữ liệu đại số.

23 Hp12c.
Máy tính tài chính huyền thoại HP-12C

HP-12C là máy tính cực kỳ nổi tiếng và được người dùng trong lĩnh vực tài chính ưa chuộng do được tích hợp sẵn các hàm số tài chính hiện đại như "I", "PV", "FV" và dễ dàng tính được các chỉ số lãi, lãi ròng, giá trị của dòng tiền theo thời gian,… Tuy nhiên do vẫn sử dụng phương pháp nhập liệu theo chuẩn Do Thái nên gây sự khó khăn trong quá trình sử dụng cho những người không có kiến thức chuyên môn.

Từ những năm 1990 đến nay, các máy tính bỏ túi luôn được các nhà sản xuất hiện đại hóa và cho ra đời những mẫu sản phẩm có tính chuyên môn hóa cao hơn để phù hợp với nhiều lĩnh vực.

casio fx 570.
Máy tính Casio FX-570 MS - Gắn liền với thế hệ học sinh 9X Việt Nam

Kết

Vậy là qua hơn 400 năm, từ chiếc máy đếm cơ học sơ khai của Pascal, trải qua chiếc bánh xe huyền thoại của Leibniz, cho đến chiếc máy tính CS-10A của Sharp nặng 25 kg, qua bao nỗ lực đến ELK 6521 giảm xuống còn 8 kg, rồi LE-120A "HANDY" của Busicom đã có thể bỏ túi, cuối cùng qua hàng loạt cải tiến và nâng cấp về chương trình cũng như phần cứng, chúng ta đã có chiếc máy tính bỏ túi chỉ chiếm một ngăn nhỏ trong chiếc cặp của học sinh mà trong lượng chưa đến 200 gram. Vẫn là câu nói khi viết về các phát minh, thật thán phục trước nỗ lực và khả năng sáng tạo của con người đặc biệt là các nhà phát minh: "Biến cái không thể thành có thể" để cuộc sống của con người trở nên đơn giản và dễ dàng hơn.

Cám ơn các bạn đã theo dõi bài viết, hẹn gặp lại các bạn trong chủ đề lần tới của chuyên mục "Mỗi tuần 1 phát minh" được phát hành định kỳ vào Chủ nhật hàng tuần trên tinhte.vn. Chúc các bạn có một ngày cuối tuần vui vẻ. :)

Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

[Infographic] Tìm hiểu ngày lễ Halloween

BANNER.

Ngày lễ Halloweem xuất phát từ một nghi lễ ở các nước phương Tây, vào ngày 31 tháng 10 hàng năm, ngay đêm trước lễ các thánh Nam Nữ. Ngày lễ kỷ niệm này có các nguồn gốc cổ xưa, được phổ biến tại nhiều nước khác nhau, ở mỗi đất nước nó lại thể hiện những ý nghĩa khác nhau với các cách tổ chức lễ hội khác nhau như Ailen, nước Anh, Mexico, Hồng Kông,… và nhiều nước khác nữa. Tuy nhiên, tất cả đều mang ý nghĩa của những phong tục tập quán sâu xa và những tên gọi khác nhau, chung quy đều là một ngày lễ kỷ niệm để thể hiện sự tưởng nhớ của người sống đối với người đã khuất, và cầu mong những điều tốt đẹp sẽ đến với mọi người, hay đơn thuần chỉ là một ngày để mọi người có thể cùng nhau vui vẻ sum họp một cách thân tình bên bạn bè người thân của mình.

Tại Việt Nam, những năm trở lại đây, ngày lễ Halloween này cũng bắt đầu được giới trẻ biết đến như bao ngày lễ hội khác, không khí lễ hội cũng đã len lỏi đến nhiều nơi, từ phố xá đến cả cộng đồng mạng với nhiều sự kiện được tổ chức nhằm hưởng ứng ngày lễ Halloween này. Nhân ngày này, mời các bạn cùng theo dõi một số thông tin về ngày lễ này tại các nước trên thế giới qua Infographic này nhé.

what-tp-know-about-halloween VIETHOA.




[Infographic] Tìm hiểu ngày lễ Halloween

BANNER.

Ngày lễ Halloweem xuất phát từ một nghi lễ ở các nước phương Tây, vào ngày 31 tháng 10 hàng năm, ngay đêm trước lễ các thánh Nam Nữ. Ngày lễ kỷ niệm này có các nguồn gốc cổ xưa, được phổ biến tại nhiều nước khác nhau, ở mỗi đất nước nó lại thể hiện những ý nghĩa khác nhau với các cách tổ chức lễ hội khác nhau như Ailen, nước Anh, Mexico, Hồng Kông,… và nhiều nước khác nữa. Tuy nhiên, tất cả đều mang ý nghĩa của những phong tục tập quán sâu xa và những tên gọi khác nhau, chung quy đều là một ngày lễ kỷ niệm để thể hiện sự tưởng nhớ của người sống đối với người đã khuất, và cầu mong những điều tốt đẹp sẽ đến với mọi người, hay đơn thuần chỉ là một ngày để mọi người có thể cùng nhau vui vẻ sum họp một cách thân tình bên bạn bè người thân của mình.

Tại Việt Nam, những năm trở lại đây, ngày lễ Halloween này cũng bắt đầu được giới trẻ biết đến như bao ngày lễ hội khác, không khí lễ hội cũng đã len lỏi đến nhiều nơi, từ phố xá đến cả cộng đồng mạng với nhiều sự kiện được tổ chức nhằm hưởng ứng ngày lễ Halloween này. Nhân ngày này, mời các bạn cùng theo dõi một số thông tin về ngày lễ này tại các nước trên thế giới qua Infographic này nhé.

what-tp-know-about-halloween VIETHOA.




Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2013

[Mỗi ngày một phát minh] Lịch sử 300 năm của tàu đệm khí hovercraft

Tau_dem_khi-1.

Trong những bộ phim chiến tranh hay phim hành động Mỹ, bạn thường thấy binh lính đổ bộ từ biển vào đất liền hay di chuyển linh hoạt trong các vùng đầm lầy bằng một loại phương tiện đặc biệt. Nó không phải tàu cũng không phải là xe cơ giới, nó di chuyển trên nước lẫn trên cạn nhưng không chạm vào bề mặt. Phương tiện đặc biệt này được gọi là hovercraft hay tàu đệm khí.

Mẫu tàu đệm khí Hovercraft Model - 1500 của công ty Hover-Shuttle tại Mỹ

Hovercraft - một loại tàu (craft) có khả năng lơ lửng trên không (hover). Tàu đệm khí là một phương tiện di chuyển đặc biệt – tự tạo cho mình một đệm không khí phía dưới và di chuyển trên đệm khí đó. Nó có thể di chuyển trên một bề mặt tương đối bằng phẳng, có thể là một con dốc, mặt nước, bề mặt đóng băng mà không hề chạm vào bề mặt đó.

hovercraft_Emanuel Swedenborg.
Emanuel Swedenborg - Người phát thảo mô hình tàu đệm khí đầu tiên

Mẫu thiết kế đàu tiên của tàu đệm khí được đưa ra lần đầu tiên vào năm 1716 bởi Emanuel Swedenborg (1688 – 1772), một nhà thiết kế, thần học và triết gia người Thụy Điển. Ông đưa ra một mẫu thiết kế có hình dáng một chiếc thuyền lộn ngược hoạt động bằng sức người, với một vị trí điều khiển ở trung tâm và tay chèo có nhiệm vụ nén không khí ở phía dưới nhằm nhấc chiếc tàu lên. Tuy nhiên, đó chỉ là một bản thiết kế vẫn còn nằm trên giấy, chưa được chế tạo vì rõ ràng, không thể dùng sức người tạo ra một lực nén đủ mạnh để có thể nhấc chiếc tàu lên được.

Vào giữa thập niên 1870, Sir John Isaac Thornycroft, một kỹ sư người Anh thử nghiệm một kỹ thuật dùng không khí để làm giảm lực cản giữa nước và thân tàu dựa trên ý tưởng của ông, ông đã được nhận bằng phát minh cho kỹ thuật này, tuy nhiên thử nghiệm của ông không nhận được sự quan tâm vì chưa thể áp dụng vào thực tế.

Mãi đến năm 1915 – 1916, mẫu tàu đệm khí đầu tiên đã được chế tạo thành công bởi Hải quân hoàng gia đế chế Áo – Hung tại Pola, dựa trên mẫu thiết kế của Dagobert Müller von Thomamühl cho kho vũ khí hải quân. Ngày 2/9/1915, mẫu tàu đêm khí đầu tiên được hạ thủy, thủy thủ đoàn gồm 5 người và đạt tốc độ nhanh nhất thời bấy giờ, mang tên là “Tàu cánh ngầm với hệ thống Thomamühl”.

hovercraft_Thomamühl_1915_2.
Mẫu tàu của Thomamühl được thử nghiệm năm 1916

Đến năm 1916, mẫu tàu của Thomamühl được thử nghiệm phát triển thành tàu phóng ngư lôi nhanh, được trang bị 2 ngư lôi, một súng máy Schwarzlose và một số “quả bom nước” dùng để làm tàu chống ngầm. Nó có 2 cánh quạt, mỗi cánh quat được vận hành bằng động cơ 6 xilanh giúp đẩy tàu đi tới, một động cơ 4 xylanh khác được sử dụng để thổi luồng khí nóng xuống phía dưới thân tàu, tạo ra một đệm không khí giúp tàu di chuyển trên đệm khí đó. Sau khi đưa ra sử dụng thử trên biển, cuối cùng thử nghiệm bị hủy bỏ vào năm 1917, sau đó hải quân Áo – Hung chính thức ngừng tiến hành những nghiên cứu về loại tàu này.

Năm 1927, Konstantin Tsiolkovsky, một nhà khoa học Liên Xô lần đầu tiên mô tả về Hiệu ứng mặt đất/nước và lý thuyết về phương pháp tính toán khí động lực học cho phương tiện di chuyển bằng đệm khí trong bài nghiên cứu của mình về Lực cản không khí và Xe lửa tốc hành.

Cuối cùng, vào năm 1931, Toivo J. Kaario, một kỹ sư người Phần Lan, cũng là trưởng phân xưởng sản xuất động cơ máy bay Valtion Lentokonetehdas, bắt đầu thiết kế mẫu tàu đệm khí. Ông tiến hành chế tạo và thử nghiệm, ông gọi nó là pintaliitäjä (Tàu lượn trên bề mặt) và ông đã nhận được bằng sáng chế về phát minh này. Kaario được xem là người đầu tiên chế tạo thành công phương tiện vận hành bằng đệm khí một cách hoàn chỉnh nhất cho đến thời điểm bấy giờ, tuy nhiên ông không thể tiếp tục phát triển nó do không thể tìm được nguồn kinh phí.

hovercraft_Kaario_1930_1.
Mẫu tàu của Kaario vào năm 1931

Cùng khoảng thời gian với Kaario, Vladimir Levkov - một giáo sư người Nga làm việc tại khoa Động lục học ứng dụng tại trường Đại học Bách khoa Donskoi, đã nghiên cứu và chế tạo thành công mô hình tàu đệm khí vào năm 1927, ban đầu nó là một mô hình tròn và đối xứng. Đến năm 1932, ông cho ra đời mô hình tàu đệm khí với chiều dài 2.5m, đặc trưng là dạng thuôn dài, trang bị hai động cơ và mẫu thiết kế này đã vận hành thành công.

hovercraft_Levkov_1930_1.
Mẫu L-1 của Levkov năm 1935

Konstantin Tsiolkovsky là người đầu tiên mô tả về Hiệu ứng mặt đất và lý thuyết về phương pháp tính toán khí động lực học cho phương tiện di chuyển bằng đệm khí trong nghiên cứu về “Lực cản của không khí và Tàu lửa tốc hành” của mình vào năm 1927.
Kể từ đó, Vladimir Levkov bắt đầu có ý tưởng phát triển phương tiện di chuyển trên đệm không khí. Khoảng giữa thập niên 1930, Leckov lắp ráp thử nghiệm khoảng 20 tàu đệm khí (chủ yếu nhằm mục đích quân sự). Từ mẫu L1 chỉ là một mẫu thiết kế đơn giản với 2 bè gỗ nhỏ được trang bị ba động cơ, dần cải tiến cho đến mẫu L5 đã được thử nghiệm thành công có thêm một động cơ đặt phía sau thân tàu theo chiều ngang làm nhiệm vụ tạo đệm không khi bên dưới bằng cách thổi luồng khí qua một cái phễu giữa thân tàu, mẫu này được gọi là thuyền tấn công nhanh tốc độ cao L-5.

Mẫu L-5 của Levkov năm 1937

Sau đó, cũng có nhiều nỗ lực để chế tạo một phương tiên di chuyển bằng đệm khí này bao gồm cả mẫu thiết kế của hải quân Nga và Đức trong thế chiến I.

Tại Mỹ vào thế chiến II, Charles J. Fletcher, một lính hải quân dự bị của quân đội Mỹ đã cho ra đời một mẫu thiết kế mang tên “Glidemobile” (Xe lướt), thiêt kế này dựa trên nguyên tắc tạo một luồng khí liên tục nén lên bề mặt phía dưới (có thể là mặt đất hoặc mặt nước) nhấc bổng nó lên cách mặt đất từ 25 cm đến 0,6 m. Một thời gian ngắn sau cuộc thử nghiệm tại hồ Beezer, thành phố Sparta Township, bang New Jersey, thiết kế này ngay lập tức đã bị chiếm dụng bởi Bộ quốc phòng Hoa Kỳ, và họ phủ nhận hoàn toàn bản quyền sáng tạo này của Fletcher. Mãi cho đến năm 1985, cơ quan bảo vệ bằng sáng chế đã kiện thành công Bộ quốc phòng Mỹ, và bắt bồi thường khoảng tiền 6 triệu dollar vào năm 1990.

hovercraft_Fletcher_1.
Mẫu tàu của Fletcher

Tại Mỹ, tiến sĩ W. Bertelsen cũng nghiên cứu phát triển mẫu tàu đệm hơi. Tiến sĩ Bertelsen xây dựng một nguyên mẫu ban đầu của một chiếc phương tiện này vào năm 1959 (tên gọi là AeroMobile 35-B), và bức ảnh đầu tiên của nó được đăng trên tạp chí Popular Science với hình ảnh cưỡi một chiếc xe trên đất và trên nước vào tháng 4/1959. Các bài viết khác mô tả về phát minh của của ông cũng được đăng trên tạp chí này vào tháng 7/1959.

hovercraft_Bertelson_1959_1.
Hình ảnh của Bertelsen và mẫu thiết kế của mình trên tạp chí Popular Science

Người đầu tiên chế tạo thành công tàu đệm khí một cách hoàn chình cả về mặt kỹ thuật và khả năng thương mại là một nhà phát minh người Anh, Christopher Cockerell vào năm 1955.
Vào năm 1952, Cockerell nghiên cứu về hệ thống bôi trơn bằng không khí, sau đó ông nghiên cứu sâu hơn về ý tưởng tạo ra đệm khí. Ông thực hiện những thí nghiệm đơn giản bằng cách dùng động cơ máy hút bụi và hai hộp hình trụ để tạo ra một động cơ phản lực, chìa khóa để phát minh ra tàu chạy trên đệm khí. Ông đã chứng minh tính khả thi của phương tiện này khi nó có thể tạo ra đệm khí để di chuyển trên nhiều bề mặt hoàn taoàn khác nhau như đầm lầy, mặt đất, mặt nước, mặt băng… trên ý tưởng đó, ông cho ra đời mẫu tàu đệm khí SR-N1 và chính thức vận hành vào ngày 11 tháng 6 năm 1959.

hovercraft_Cockerell _1959_2.
Mẫu tàu đệm khí đầu tiên của Cockerell được hạ thủy

Một thời gian ngắn sau, nó thực hiện chuyến đi từ Pháp sang Anh để dự lễ kỷ niệm 50 năm chuyến bay của Bleriot. Sau đó, ông cùng cộng sự quan trọng của mình là kỹ sư Denys Bliss cùng nhau hoàn thiện nó, để cuối cùng vào năm 1962, chiếc tàu đệm khí bản thương mại hóa chính thực được ra đời. Bằng sáng chế cho phát minh này được đồng trao cho cả Cockerell và Bliss vào tháng 7/1967. Cockerell đã được phong tước hiệp sĩ cho phát minh của mình vào năm 1969. Ông đã đặt tên “tàu đệm khí” (hovercraft) để mô tả cho phát minh này của mình.

hovercraft_fire.
Một tàu đệm khí được sử dụng để chữa cháy tại Anh

Qua lịch sử phát triển hơn 300 năm, từ bảng phác thảo đầu tiên của Swedenborg, đến mẫu tàu đầu tiên của Thomamühl, tiếp theo là pintaliitäjä của Kaario cùng biết bao nhiêu nỗ lực của biết bao nhà phát minh trong suốt hàng trăm năm, để rồi đến sản phẩm thương mại đầu tiên của Cockerell, cho đến ngày nay, tàu đệm khí luôn được hoàn thiện và cải tiến để trở thành một phương tiện di chuyển cực kỳ linh hoạt mà có thể sẽ là phương tiện di chuyển trong tương lai nữa. Nó được ứng dụng cả trong quân sự lẫn dân sự, từ những chiếc tàu đổ bộ nhanh của quân đội, tàu tuần tiễu bờ biển, tàu di chuyển trên đầm lầy, tàu di chuyển trên băng và cho đến những chiếc phà chở khách và còn nhiều ứng dụng khác nữa. Chính vì thế, ngoài máy bay lên thẳng ra, tàu đệm khí xứng đáng trở thành phương tiện cơ động nhất của con người.