Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

[Đánh giá] - Ống kính Fujinon 23mm f/1.4 XF

2013-tinhte-Camera-Fuji23XF-0779.

Chúng tôi rất may mắn được trên tay chiếc ống kính Fujinon 23mm f/1.4 XF dành riêng cho dòng máy X-series đang được khá nhiều người dùng quan tâm nhờ thiết kế hoài cổ, đẹp, chất màu đặc trưng và các ống kính cao cấp. Với sự ra mắt của ống 23mm f/1.4, Fujifilm đã cung cấp thêm lựa chọn cho người yêu thích thể loại ảnh đường phố và chân dung 1 lựa chọn bên cạnh ống kính tiêu chuẩn 35mm f/1.4 XF đang bán.

1 vài thông số kỹ thuật của ống kính này như sau:
  • Loại ống kính 1 tiêu cự
  • tiêu cự 23 m, trên cấu trúc cảm biến APS-C, cho góc nhìn tương đương ống 35mm trên FF
  • Ngàm Fujifilm X
  • Khẩu độ tối đa F1.4
  • Khẩu độ tối thiểu F16.0
  • khoảng cách lấy nét tối thiểu 0.28 m (11.02″)
  • trọng lượng 300 g (0.66 lb)
  • chiều dài 63 mm (2.48″)
  • Đường kính filter: 62mm
Mời các bạn xem đoạn video sau để hình dung rõ hơn về chiếc ống kính này


1. Bề ngoài
Fujifilm vẫn trung thành với việc tạo ra những ống kính chất lượng cao cả từ bề ngoài và chất lượng ảnh, nên cảm giác đầu tiên bạn cầm ống 23/1.4 là cảm giác chắc chắn, chuyên nghiệ. Hơi to so với dòng X. Ống lấy nét ở tốc độ khá.

2013-tinhte-Camera-Fuji23XF-0783.

Cơ chế chuyển từ lấy nét tự động và lấy nét tay tương tự như XF14 f/2.8 trước đây, được thực hiện thuần cơ cho cảm giác khá thoải mái

2. Về chất lượng ảnh
Do mục đích test nên tôi chủ yếu chụp ở f/1.4 để đánh giá về độ nét. 1 số ảnh ngoài trời được chụp ở f/4.0, khẩu độ được đánh giá là tối ưu với ống kính cho dòng không gương lật, đặc biệt là với ống XF23. Ảnh chụp trên máy Fuji XM-1, chỉ crop, tăng sharpness khi resize ảnh.

Đầu tiên tôi thử với với độ nét ở f/1.4 trước nhé

f/1.4 ở khoảng cách lấy nét gần (0.28m). Điểm lấy nét ở đầu chiếc muỗng cafe. Độ nét ở mức độ tốt, nhưng không xuất sắc. DOF mỏng nhưng không thật sự đúng của 1 chiếc ống kính f/1.4. Đây cũng chính là giới hạn chết người của dòng cảm biến ApS-C. Chuyển vùng từ nét sang mờ khá mềm, dịu dàng.

2013-tinhte-Camera-Fuji23XF-5015.


1 tấm khác cũng ở f/1.4 khoảng cách lấy nét gần. Lấy nét ở chữ Yashica. điều kiện trời hơi âm u. Dù có 7 lá khẩu nhưng ống cho bokeh đẹp, dịu, không gắt. độ nét vẫn ở mức độ tốt.
2013-tinhte-Camera-Fuji23XF-0183.

Trong điều kiện thực tế, f/1.4. Màu sắc được tái tạo tốt.
2013-tinhte-Camera-Fuji23XF-0180.

Thử thêm với chân dung xem thế nào nhé.

f/1.4 lấy nét ở mắt trái. Các bạn sẽ thấy nước màu đặc trưng của Fuji được thể hiện khá rõ ở tấm ảnh này.
2013-tinhte-Camera-Fuji23XF-0010.

Crop lại, soi da ;). Nét tốt quá. Nhưng vẫn còn có thể tốt hơn.
2013-tinhte-Camera-Fuji23XF-0010-2.


Chụ bạn dung ở f/1.4. Đây là lý do mình thích dùng tiêu cự 35mm (trên FF) cho ảnh chân dung, vẫn còn đủ không gian cho khung cảnh bên ngoài. Độ nét ở f/1.4 vẫn ngon lành. Màu thật sự ấn tượng. 2013-tinhte-Camera-Fuji23XF-5012.

Khi crop vào mắt để soi

2013-tinhte-Camera-Fuji23XF-5012-2.

Thêm 1 tấm nữa.
2013-tinhte-Camera-Fuji23XF-5013.

Sau khi test ở ánh sáng bình thường, chúng tôi đã chụp 1 bộ ảnh nho nhỏ ở Hội quán Tuệ Thành và Hội quán Hà Chương. Mục đích để đánh giá thử khả năng của XF23 trong điều kiện ánh sáng yếu.

Đường Nguyễn Tri Phương - f/4.0. Độ nét và màu sắc rất thích mắt.
2013-tinhte-Camera-Fuji23XF-0060.

Màu đỏ trong điều kiện ánh sáng âm/ f/1.4
2013-tinhte-Camera-Fuji23XF-0087.

Nhang vòng. f/2.0
2013-tinhte-Camera-Fuji23XF-0145.

Màu và độ nét trong ánh sáng âm. Để ý ở những viên gạch , các bạn sẽ thấy ống kiểm soát độ méo không thật sự ấn tượng lắm. hơi bị barrel distorsion nhẹ, không khó chịu nhưng nếu chụp những sản phẩm đòi hỏi sự hoàn hảo, cần lưu ý góc máy và xử lý hậu kỳ kỹ hơn.
2013-tinhte-Camera-Fuji23XF-0149.


2013-tinhte-Camera-Fuji23XF-0163.

1 số đánh giá chủ quan của mình với XF 23mm f/1.4

a. Ưu
  • Tiêu cự 35mm (trên FF) với f/1.4, rất phù hợp với chụp trong điều kiện thiếu sáng hoặc cần kiểm soát DOF.
  • Màu tái tạo đẹp.
  • Lấy nét êm ái.
b. Nhược
  • Chưa thật sự nét căng ở f/1.4. dùng ở f/1.8 sẽ có độ nét tối ưu.
  • Ống hơi lớn, dùng filter 62mm, không đồng nhất với các filter có sẵn.
  • Chưa thật sự tương thích với diện tích vùng lấy nét trên X-series. nếu như Fujifilm có thể thiết kế giúp kích thước điểm lấy nét trên thân máy nhỏ hơn, sẽ giúp tăng độ chính xác của việc lấy nét.
Tổng điểm: 9/10


1 số ảnh để các bạn tham khảo và tự có nhận định của riêng mình



Ảnh gốc được upload ở link này

[Windows 8.1] Cải tiến của công cụ tìm kiếm so với Win8

windows8.1.

Trên Windows 8 thì Microsoft đã cải tiến chức năng tìm kiếm "tất cả nội dung" trong máy tính lên một tầm cao mới, đơn giản, dễ sử dụng và trả về kết quả nhanh hơn. Để tìm, chúng ta có thể gõ từ khóa ngay trong màn hình Modern UI hoặc nhấn tổ hợp phím Win + Q rồi máy sẽ trả về kết quả, chia làm các hạng mục khác nhau như ứng dụng, file, settings... Trên bản nâng cấp 8.1, công cụ tìm kiếm này còn được hoàn thiện hơn nữa, giờ đây nó là Universal Search, nghĩa là tìm kiếm toàn bộ, nhờ việc MS đã tích hợp Bing! để làm bộ máy tìm kiếm cho hệ điều hành.

Với Win 8, kết quả khi chúng ta search sẽ trả về theo nhiều hạng mục khác nhau, ví dụ khi tìm kiếm với từ khóa "Tinhte.vn", máy tính sẽ đưa về kết quả gồm có Apps: Ứng dụng trong máy có cùng tên với từ khóa; Settings: các cài đặt có liên quan tới từ khóa; và Files: những tập tin nào có tên liên quan từ khóa, kèm theo đó ở dưới là danh sách các ứng dụng Modern mà chúng ta có thể mở ra để tìm kiếm từ khóa này.

Trên Win 8.1, Bing! được sử dụng làm bộ máy tìm kiếm mặc định cho toàn hệ thống, do đó kết quả tìm kiếm sẽ trả về trực tiếp chứ không phân loại theo từng hạng mục mà chúng ta phải tự tay dò tìm trong đó nữa, từ đó tiết kiệm thời gian cũng như việc tìm kiếm sẽ đơn giản và chính xác hơn. Ngoài ra, Bing! cũng cho phép chúng ta tìm kiếm từ khóa đó bên ngoài dữ liệu trong máy, tức là trên Internet. Với công cụ tìm kiếm mới là Bing!, giờ đây người dùng Windows 8.1 đã có một bộ máy tìm kiếm mạnh mẽ, chính xác và nhanh chóng hơn, tiện lợi hơn.


Promise ra mắt hai giải pháp lưu trữ đầu tiên sử dụng kết nối Thunderbolt 2

Pegasus2-SANLink2 Products_678x452.

Hãng Promise Technology mới đây đã ra mắt hai giải pháp lưu trữ hỗ trợ RAID đầu tiên trên thế giới sử dụng giao tiếp Thunderbolt 2. Sản phẩm đầu tiên là Pegasus2 với các phiên bản có thể chứa 4, 6, hoặc 8 ổ lưu trữ với tổng dung lượng có thể đạt đến 32TB. Người dùng được phép thiết lập RAID 0, 1, 5, 6, 10, 50 và 60 tùy nhu cầu của mình. Tốc độ lý thuyết tối đa mà Pegasus2 có thể đạt được là 20Gbps, cũng chính là tốc độ của Thunderbolt 2, để phục vụ cho việc truyền tải nội dung chất lượng cao (ví dụ: phim 4K, phim 3D). Ở mặt sau của thùng lưu trữ này sẽ có hai cổng Thunderbolt 2 để người dùng nối thêm những thiết bị ngoại vi khác theo chuỗi (daisy chain). Các phiên bản Pegasus2 sẽ bắt đầu được bán ra vào tháng sau với giá chưa được tiết lộ.

Sản phẩm thứ hai là SANLink2 Thunderbolt Fibre Channel bridge, một bộ chuyển đổi để kết nối máy tính vào hệ thống lưu trữ mạng (SAN) thông qua việc chuyển đổi giao tiếp Thunderbolt thành Fibre Channel. Chiếc hộp SANLink2 có hai cổng Thunderbolt 2 (tốc độ tối đa 20Gbps) và hai cổng Fibre Channel (tối đa 8Gbps), hỗ trợ daisy chain và xuất hình ảnh ra màn hình ngoài. SANLink2 Thunderbolt Fibre Channel bridge sẽ bắt đầu được bán ra vào tháng 12, cũng chưa có giá của thiết bị này.

Pegasus2-SANLink2 Products_1.

Xem thêm: Intel ra mắt Thunderbolt 2, tối ưu hóa tốt hơn kênh truyền 20Gbps cho nội dung 4K


AMD công bố thông số card Radeon R9 290X: đối thủ của nVIDIA GTX TITAN với giá bằng 1/2

AMD-radeon-r9-290x.

Sau 1 tháng giới thiệu thì gần đây AMD mới chính thức công bố thông số chi tiết về chiếc card đồ họa Radeon R9 290X của mình, sản phẩm đồ họa có GPU 1 nhân mạnh nhất của họ tính tới thời điểm hiện tại, là "át chủ bài" của AMD để cạnh tranh trực tiếp với GeForce GTX TITAN của đối thủ nVIDIA. GPU R9 290X có tên mã là Hawaii, được phát triển trên tiến trình 28nm, vi kiến trúc nâng cấp GCN 1.1 so với phiên bản 1.0 của thế hệ Radeon HD 7000 và 8000 series trước đây. Card đồ họa Radeon R9 290X có 4GB RAM 5GHz GDDR5, bắt đầu được bán ra vào ngày 24/10 với giá bán khởi điểm 549$.

Nếu so về thông số lí thuyết, Radeon R9 290X vẫn chỉ suýt soát với GTX TITAN của nVIDIA chứ không chênh lệch đáng kể, ví dụ 290X có 2816 đơn vị bộ xử lý dòng (Stream Processors) trong khi con số của TITAN là 2688 (nVIDIA gọi là CUDA Core). Nhưng bạn nên biết rằng GTX TITAN trên lý thuyết có 15 SMX (Streaming Multiprocessor), mỗi SMX có 192 nhân CUDA, tổng cộng là 2880 nhân CUDA. Vì vậy, trên thực tế sử dụng nVI đã khóa bớt một SMX, nên TITAN chỉ có 15 x 192 = 2688 nhân CUDA mà thôi. Về bộ nhớ, R9 290X có 4GB RAM GDDR5 còn TITAN có 6GB RAM. Ngoài ra, GPU TITAN có kích thước đế 551mm vuông, chứa 7,1 tỉ bóng bán dẫn trong khi ở R9 290X là 438mm vuông với 6,2 tỉ bóng bán dẫn. Do đó năng lực xử lý tổng thể của R9 290X được công bố là 3,79 TFLOPS so với 4,5 TFLOPS của GTX TITAN.

Tuy nhiên, AMD lại có lợi thế cực kì lớn so với đối thủ nVIDIA đó là giá thành rất cạnh tranh. Card đồ họa Radeon R9 290X của họ có giá khởi điểm 549$, chỉ bằng một nửa so với mức giá 1000-1100$ hiện nay của GeForce GTX TITAN.

Radeon-R9-290X.

Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2013

[Mỗi tuần 1 phát minh] Những sáng chế dành cho trẻ em vào những năm đầu thế kỷ 20

CuKhang.

Trẻ em luôn là mối quan tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ, đặc biệt là khi trẻ còn nhỏ. Vì vậy, bên cạnh những phát minh to lớn khác thì cũng có rất nhiều phát minh đơn giản dành cho trẻ em. Mục đích chính của hầu hết các phát minh này là hỗ trợ cha mẹ giữ trẻ và bảo vệ an toàn cho trẻ. Tuy nhiên, không phải phát minh nào cũng hiệu quả và được sử dụng rộng rãi. Chuyên mục "Mỗi tuần một phát minh" tuần này sẽ gởi đến các bạn 11 phát minh "vui vẻ" dành cho trẻ em vào đầu thế kỷ 20.

Tháng 5 năm 1916: Chiếc nôi gắn ngoài cửa sổ

01.

Một chiếc nôi ngủ dành cho bé được gắn ngoài cửa sổ của một ngôi nhà cao tầng cách mặt đất hàng trăm mét, điều này liệu có phải là sự thật? Vâng, trong một thành phố với dân số quá lớn, mật độ dân số quá cao, người ta phải chen chúc nhau trong những không gian chật hẹp của những tòa nhà cao tầng. Các bậc cha mẹ quan tâm đến những đứa con yêu dấu của mình phải sống trong một không gian chật hẹp thiếu dưỡng khí và ánh sáng. Vì vậy, các nhà phát minh đã nắm bắt được nhu cầu đó và cho ra đời một chiếc nôi có mái che và có thể đính vào bất cứ chiếc của sổ nào. Thiết bị này có một khung sắt được gắn chắc chắn vào cửa sổ, chịu được trọng lượng hơn 226 kg và có thể chống chọi trước những cơn gió mạnh trên cao. Mặt trong có một cửa lưới để ngăn em bé leo vào bên trong nhà. Trong hình trên, chúng ta có thể thấy chiếc nôi ngủ này đủ rộng để có thể chứa cả một chiếc xe đẩy trẻ em để người mẹ có thể đung đưa ru con mình ngủ.

Tháng 9 năm 1917: Chiếc nôi tự đung đưa

02.

Giống như nhiều bậc cha mẹ khác, Sheldon D. Vanderburgh, một nhà phát minh đến từ Hastingson Hudson, New York, cảm thấy mệt mỏi vì phải dỗ dành đứa con luôn khóc quấy mà không chịu ngủ. Cuối cùng, ông đã tìm một giải pháp đó là một chiếc nôi cho trẻ em có thể tự đung đưa. Đầu tiên, Vanderburgh làm một chiếc nôi có lưới bao quanh. Sau khi ráp phần nôi vào một chiếc khung gỗ, ông nhận ra rằng chiếc nôi sẽ hiệu quả hơn nếu nó có thể tự đung đưa mà không cần đến lực đẩy của con người. Vậy là ông đã lắp thêm một dây cót tích trữ năng lượng bằng lò xo và con lắc vào một chiếc trục. Kết quả là chiếc võng đã tự đung đưa như con lắc của đồng hồ sau khi lên dây cót. Thêm nữa, ngoài khả năng tự đung đưa, chiếc nôi còn phát ra những tiếng động đều đặn theo nhịp khiến đứa bé có thể đi vào giấc ngủ một cách tự nhiên.

Tháng 10 năm 1917: Ống giữ em bé

03.

Khi các bậc cha mẹ đưa con trẻ theo trên những chuyến tàu hỏa, họ luôn băn khoăn và lo ngại rằng con của mình sẽ khóc hoặc làm phiền đến những người khác trên khoang. Họ nói: "Chúng tôi mong đợi từ năm này sang năm khác rằng sẽ có một nhà phát minh thông minh nào đó chế tạo một thiết bị để những đứa trẻ sơ sinh có thể nghịch ngợm, khóc quấy thoải mái khi nằm bên trong mà vẫn không làm phiền những hành khách khác". Các bậc phụ huynh đòi hỏi thiết bị cần phải được bịt kính bằng một vật liệu cách âm để tiếng ồn không thể phát ra được.

Caleb M. Prather, nhà phát minh đến từ Evanston, Illinois đã thiết kế một chiếc nôi xách tay có hình ống được đục lỗ. Trong lúc thức, đứa trẻ được đặt bên trong chiêc nôi này để cha mẹ chúng có thể dỗ dành và trông chừng, đến khi ngủ, chiếc nắp sẽ được đóng lại và đứa trẻ vẫn có thể thở bình thường thông qua các lỗ thông khí. Cha mẹ của trẻ sẽ được rảnh tay nghỉ ngơi mà không phải mệt mỏi bế chúng trên tay trong suốt chuyến đi nữa.

Mặc dù đây là một thiết bị tiện lợi cho các bậc cha mẹ nhưng lại gây sự khó chịu cho các hành khách xung quanh vì vẫn chưa giải quyết được vấn đề hạn chế tiếng ồn của đứa trẻ. Hơn nữa, không gian trong "chiêc nôi" này quá chật hẹp nên cuối cùng sản phẩm của ông không được phổ biến rộng rãi.

Tháng 2 năm 1920: Chiếc nôi có động cơ

04.

Dù sao đi nữa, đung đưa liên tục một chiếc nôi để dỗ một đứa bé ngủ không phải là một công việc thú vị cho lắm. Do đó, các nhà phát minh đã chế tạo ra một chiếc nôi có động cơ để tự đung đưa liên tục trong vòng 2 tiếng đồng hồ mà không cần có người theo dõi. Giống như chiếc nôi tự đung đưa của Vanderburgh, chiếc nôi của nhà phát minh Luther P. Jones cũng được trang bị hệ thống truyền động chính là động cơ của một chiếc đồng hồ cơ. Như trong bức ảnh, chiếc nôi được treo trên một cái trục, bên trên là hệ thống cơ được gắn vào khung bằng kim loại. Để vận hành chiếc nôi này, người ta chỉ việc lên dây cót, các bánh răng sẽ vận động làm chiếc trục dao động qua lại và nôi tự đung đưa. Hoạt động của hệ thống bánh răng cũng phát ra những tiếng tách tách vui tai để đứa trẻ có thể đi vào giấc ngủ dễ hơn.

Tháng 5 năm 1934: Đèn tia cực tím dành cho trẻ em

05.

Vụ bắt cóc em bé tên Lindbergh vào mùa xuân năm 1934 đã khiến các bậc cha mẹ hết sức ám ảnh. Do đó, người ta đã tạo ra một thiết bị báo động tương tự như hệ thống báo động bằng laser công nghệ cao mà bạn nhìn thấy trong các bộ phim hành động. Tuy nhiên, thay vì sử dụng laser, người ta sử dụng những bóng đèn tia tử ngoại được giấu dưới chiếc nệm của trẻ. Khi chiếc nệm bị xâm phạm, tia cực tím sẽ chiếu vào một bộ cảm biến điện tử kích hoạt âm thanh báo động. Tuy nhiên, các bậc cha mẹ thật sự không yên tâm khi đứa con bé bỏng của mình lại phải nằm trên một hệ thống máy móc nhạy cảm như vậy.

Tháng 10 năm 1939: Chỗ ngồi cho trẻ em trên xe đạp

06.

Bạn muốn đưa trẻ theo khi đi dạo phố bằng xe đạp nhưng việc vừa bế trẻ một tay vừa cầm lái lại không an toàn. Vì vậy, phát minh của Emile Eberle đến từ Geneva, Thụy Sĩ chính là câu trả lời dành cho bạn. Một chiếc ghế được gắn chặt vào tay lái và chiếc khung kim loại được gắn chặt vào cổ xe sẽ giúp bạn thoải mái đưa con dạo chơi.

Tháng 10 năm 1939: Chiếc mặt nạ phòng độc dành cho trẻ em

07.

Chiếc mặt nạ toàn thân này thoạt nhìn thật hài hước, thế nhưng trước sự đe dọa của các cuộc tấn công bằng khí độc vào năm 1938 khi chiến tranh sắp bùng nổ thì đây thật sự đây là một lựa chọn khá lý tưởng. Chiếc mặt nạ này được Pháp phát triển dành cho người lớn kèm theo một phần mở rộng dành cho trẻ em. Nó được trang bị một bộ lọc và một bộ phận hoạt động như một lá phổi được chế tạo bằng cao su. Người giữ trẻ luôn kiểm soát được lượng không khí trong lành đi vào bất cứ lúc nào bằng chiếc phổi nhân tạo này.

Tháng 12 năm 1938: Đèn UV đóng đấu trẻ sơ sinh

08.

Để tránh tình trạng nhầm hoặc đánh tráo trẻ sơ sinh, người ta đã phát minh ra một dụng cụ dùng tia cực tím để "đóng dấu" tên viết tắt của em bé vào da ngay khi đứa trẻ vừa được sinh ra tại bệnh viện. Chiếc đèn tia cực tím cầm tay này sẽ chiếu tia cực tím thông qua một con dấu mang tên đứa bé và để lại trên da một dấu nhạt, dấu này sẽ tự biến mất sau vài tuần. Đây được ví như lần bị cháy nắng đầu tiên trong đời đứa bé vậy.

Tháng 8 năm 1939: Bản nâng cấp mặt nạ phòng độc cho trẻ em

09.

Chiếc mặt nạ được ra đời trong hoàn cảnh một tháng sau khi Đức chiếm đóng Ba Lan. Nó được thiết kế bởi các nhà phát minh người Anh sau 3 năm nghiên cứu. Tương tự như mặt nạ phòng độc cho em bé trước đó, nó cũng có một bộ lọc và một chiếc bơm không khí để người giữ trẻ có thể kiểm soát lượng không khí cho bé. Phần trùm trên đầu được làm bằng vải kín khí trong khi phần cửa sổ được làm bằng vật liệu cellulose cho phép đứa bé có thể quan sát được môi trường xung quanh.

Tháng 9 năm 1939: Dụng cụ tập đi cho trẻ em

10.

Hầu hết các bậc cha mẹ đều tập con mình đi bằng cách nhẹ nhàng nâng chúng lên bằng tay hoặc mua cho chúng một chiếc xe tập đi. Thế nhưng, một kỹ sư người Thụy Sĩ có một ý tưởng hay hơn là thiết kế một dây đeo và xà gỗ nối giữa chân của cha mẹ vào chân của đứa bé. Bằng cách đó, cha mẹ có thể dùng chân dễ dàng hướng dẫn đứa trẻ bước đi. Một hệ thống ròng rọc cũng được gắn liền với chiếc xà gỗ để giữ cho đứa trẻ được đứng thẳng và cân bằng.

Tháng 10 năm 1939: Đai an toàn trong bồn tắm

11.

Thật là không an toàn khi bạn để con một mình trong bồn tắm mà không quan sát. Thế nhưng, nếu có một việc đột xuất như có người gọi cửa hoặc một đứa con khác đang khóc ở phòng kế bên thì sao? Thay vì hét lên để gọi sự giúp đỡ của vợ, chồng hoặc những người khác thì phát minh này sẽ cho phép bạn tự ra khỏi phòng tắm mà không cần phải bận tâm về đứa trẻ. Carl H. Fischer, một nhà phát minh đến từ bang Iowa đã chế tạo một thanh kim loại nhỏ để giữ chặt đứa bé vào trong thành bồn tắm khi bà mẹ đang bận công việc. Để sử dụng, chỉ cần đeo đai an toàn cho bé vào thanh kim loại và đính thanh kim loại vào bồn tắm. Hai đầu của thanh kim loại được gắn một miếng đệm cao su để nó có thể được cố định vào thành bồn tắm, qua đó giữ em bé được ngồi vững ở một vị trí cố định.