Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

Đánh giá bo mạch chủ MSI Z87M-Gaming: Haswell, m-ATX, hỗ trợ 2 GPU, ép xung OC Genie

MSI-Z87-gaming.

Z87M-Gaming là mẫu bo mạch chủ mới nhất của MSI, được ra mắt vào ngày 29/10 vừa qua. Theo như tên gọi này, chúng ta có một chiếc mobo sử dụng chipset Z87, hỗ trợ CPU Haswell mới nhất của Intel, kí tự M cho biết sản phẩm có kích thước micro-ATX và Gaming là dòng dành cho game thủ, được tích hợp nhiều tính năng hay ho, nên cả giới mê game lẫn các bạn khoái vọc vạch OC cũng có thể sử dụng loại mobo này. Để minh chứng cho điều này, MSI quảng cáo rằng Z87M-Gaming được trang bị những tính năng cốt lõi như Audio Boost: soundcard tích hợp chất lượng cao, card LAN của Killer, hỗ trợ 2 card đồ họa để thiết lập SLI/CrossfireX, các cổng kết nối được mạ vàng và linh kiện Military Class 4 cho chất lượng bền hơn, tích hợp nút bấm OC Genie để ép xung tự động CPU dòng K.

Thông số kĩ thuật Z87M-Gaming:
  • Hỗ trợ CPU: Intel Haswell, socket LGA1150, 8 phase cấp nguồn CPU
  • Chipset: Intel Z87 Express Chipset
  • Giao tiếp đồ họa: 2 PCI-E 3.0 x16, hỗ trợ AMD CrossfireX, nVIDIA SLI
  • Cổng xuất đồ họa: DisplayPort, 2 HDMI
  • RAM: 4 khe DDR3 LONG-DIMM, hỗ trợ bus 3000 (OC)
  • Khe cắm mở rộng: 2 PCI-E x1
  • SATA/eSATA: 6 SATA 6Gbps; 2 eSATA 6Gbps
  • RAID: hỗ trợ RAID 0/1/5/10
  • USB: 8 USB 3.0; 6 USB 2.0
  • LAN: Killer E2205 Gigabit Ethernet
  • Audio: 7.1 HD Audio Realtek ALC1150, công nghệ Sound Blaster Cinema
  • Tổng quan
Ngoài mobo ra, dĩ nhiên những phụ kiện đi kèm không thể thiếu có thể kể đến là sách hướng dẫn, đĩa Driver, cáp SATA (4 sợi 6Gbps), nắp che mặt sau của bo mạch, cầu SLI để kết nối 2 GPU... Các phần mềm tiện ích và driver mà MSI viết cho Z87M-Gaming hỗ trợ Windows 7 và Windows 8, tuy nhiên có một vài tiện ích chưa chạy được trên Windows 8.1, điển hình là chương trình MSI Command Center. Chúng ta có thể theo dõi và cập nhật các bản mới hơn trên trang hỗ trợ của MSIđể có phiên bản mới nhất.

Về nhân vật chính, chiếc bo mạch chủ MSI Z87M-Gaming của chúng ta có kích thước m-ATX, do đó nó có thể phù hợp với hầu hết các thùng máy sử dụng chuẩn ATX hiện nay, dĩ nhiên là sẽ không gắn vừa với những loại case mini-ITX tí hon hoặc các loại case HTPC siêu gọn nhẹ. Sản phẩm được mã 2 màu chính là đen và đỏ, giống như màu của vỏ hộp bên ngoài, theo đúng tông màu Gaming truyền thống của MSI. Để cấp điện cho CPU, MSI sử dụng 1 đầu cấp điện nguồn vô 6 chân kèm theo 8 phase nguồn chất lượng cao, do đó khi sử dụng CPU dòng K chúng ta cũng có thể thoải mái ép xung mà không lo ngại mobo cấp không đủ điện cho CPU. Theo MSI, tất cả linh kiện sử dụng cho bo mạch đều theo tiêu chuẩn Military Class 4, tức là đã vượt qua 7 bài test chất lượng của quân đội Mỹ.

Về những thành phần kết nối chính, bo mạch có 4 khe cắm RAM DDR3, hỗ trợ bus tối đa là 3000MHz khi ép xung, kèm theo đó là 2 khe PCI-E 3.0 x16 để cắm card đồ họa rời, hỗ trợ SLI lẫn Crossfire, chúng ta cũng dễ dàng cắm 2 chiếc card hạng nặng như AMD Radeon HD 7990 hoặc nVIDIA GTX TITAN mà không sợ cấn đụng các linh kiện khác. Điều mình không thích ở bo mạch này là vị trí 6 cổng SATA nằm ngang theo chiều dày của bo mạch chứ không phải thẳng đứng, do đó chúng ta sẽ gặp khó khăn khi gắn các loại cáp SATA có đầu chữ L vì dây sẽ bị cấn xuống thùng máy.

Về mặt kết nối, Z87M-Gaming cũng được trang bị rất đầy đủ các cổng, ví dụ ở mặt sau chúng ta có 6 USB 3.0, 2 USB 2.0 (kèm theo dây nối mở rộng ra 2 USB 3.0 và 4 USB 2.0 cho những thùng máy có cổng mặt trước), 2 HDMI 1.4a; 1 DisplayPort 1.2; 2 eSATA, cổng quang Toslink, sound 7.1, LAN gigabit...

Z87M-gaming.

Trên Z87M-Gaming, MSI có quảng cáo 2 tính năng mà họ đánh mạnh để khai thác trong dòng bo mạch chủ Haswell, đó là công nghệ âm thanh Audio Boost với chipset Realtek chất lượng cao và LAN gigabit của Killer. Trước hết, với Audio Boost, MSI đã sử dụng chipset âm thanh ALC1150 chất lượng cao (so với chipset ALC898 mà các hãng khác hay dùng) cho soundcard tích hợp của mình, kèm theo đó nhiều tụ điện chất lượng cao và chip amplifier OPA1652, có chức năng làm trong và khuếch đại tần số âm thanh. Theo MSI thì card âm thanh của Z87M-Gaming có độ nhạy lên tới 600 Ohm, do đó giúp loa, tai nghe thể hiện được nhiều chi tiết âm thanh hơn, "bén" hơn ở ngay cả mức âm lượng nhỏ. Phần mềm quản lý âm thanh đi kèm Sound Blaster Cinema cũng cho phép người dùng tùy chỉnh EQ tùy theo sở thích khi sử dụng.

ALC1150.

Kèm theo đó, một tính năng khác cũng được MSI thiết kế cho game thủ, đó là card mạng LAN E2205 của Killer, có băng thông download/upload cao hơn so với các sản phẩm khác, theo MSI thì E2205 đạt tốc độ upload lên tới 550MB/giây và download lên tới 450MB/giây, cao hơn 35% so với thế hệ cũ.

SNAG-0022.
Cuối cùng, bo mạch Z87M-Gaming còn được trang bị cụm nút Start/Reset dùng để bật máy tính, reset máy khi gặp lỗi, rất hữu dụng trong những trường hợp không gắn bo mạch vô thùng máy và chúng ta có thể thao tác bật tắt máy bằng phím cứng nằm ngay trên mobo. MSI đã phát triển cấu hình ép xung tích hợp sẵn với nút OC Genie trên mobo, nếu không rành về ép xung thì chỉ cần nhấn nút này, hệ thống sẽ tự động tối ưu các phần cứng và đưa ra mức OC thích hợp nhất cho máy. Ví dụ với cấu hình thử nghiệm này, bo mạch đã ép xung CPU Core i7-4770K từ xung mặc định 3,5GHz lên 4,2GHz và sử dụng hoàn toàn ổn định.

Màn hình tùy chỉnh trong BIOS

bios (2). bios (3). bios (4). bios (5). bios (6). bios (1).

Cấu hình thử nghiệm
  • CPU: Intel Core i7-4770K
  • Bo mạch chủ: MSI Z87M-Gaming
  • RAM: 8GB x 2 Corsair Vengeance pro 2133MHz
  • Ổ cứng: SSD Corsair Neutron GTX 240GB + HDD 2TB RAID 0
  • GPU: AMD Radeon HD 7990
  • Nguồn: EVGA SuperNOVA 750W
  • HĐH: Windows 8.1 Pro 64bit
cpuz. ram (2). ram (3). ram.
  • Thử nghiệm
Như đã nói ở trên, chức năng OC Genie trên bo mạch Z87M-Gaming giúp chúng ta ép xung CPU đơn giản mà không cần phải rành các thông số kĩ thuật như xung RAM, điện thế CPU, điện thế mobo... MSI cũng khuyến cáo là khi đã kích hoạt OC Genie thì chúng ta không nên can thiệp các thông số ép xung khác trong BIOS.

Với mức tối ưu 4,2GHz mà OC Genie đặt cho Core i7-4770K (lên 20% so với mặc định), hệ thống khởi động và sử dụng hoàn hảo, kể cả khi benchmark lẫn stress máy. Lúc này bộ xử lý có nhiệt độ trong ngưỡng từ 50-60 độ C khi chạy bình thường và benchmark, lưu ý là nhiệt độ này tùy thuộc rất nhiều vào quạt tản nhiệt (hệ thống dùng stock fan), keo tản nhiệt, độ thoáng của thùng máy.

Trong trường hợp thích ép xung CPU, ngoài việc can thiệp các thông số trong BIOS, chúng ta có một lựa chọn khác đơn giản hơn đó là dùng phần mềm MSI Intel Extreme Utility đi kèm, cho phép ép xung CPU và RAM ngay trong Windows mà không cần khởi động lại máy. Thử nghiệm kéo hệ số nhân lên 45 trong khi các thông số điện thế khác vẫn mặc định, hệ thống ngay lập tức bị dump. Khi hạ HSN xuống 43, tức là CPU sẽ chạy ở tối đa 4,3GHz, có vẻ Z87M-Gaming làm việc mặc định ở mức xung nhịp này tốt hơn và đây là mức tối ưu mà nó có thể chịu được, với các mức điện áp khác ở mặc định, hệ thống khởi động tốt và chạy stress, benchmark đều mượt mà, không gặp lỗi phát sinh.

oc (1). oc (2). oc (3). oc (4). oc (5). oc (6).

aida64.

Tốc độ của 1 ổ cứng 1TB 7200rpm khi chạy đơn

hdd (1). hdd (3). hdd (5). hdd (7). hdd.

Và 2 ổ khi chạy RAID 0:

raid (2). raid (3). raid (1). raid (4). raid (5). raid (6).

  • Kết luận
Nhiều tính năng tính hợp, linh kiện Military Class 4 chất lượng cao, hỗ trợ 2 card đồ họa và nhiều chức năng vui vẻ khác, bo mạch chủ Z87M-Gaming với giá bán đề xuất ở Mỹ là 159$ hứa hẹn sẽ là một lựa chọn khác cho giới game thủ khi chọn build cho mình một bộ máy tính gọn hơn nhưng vẫn hỗ trợ đầy đủ tính năng cao cấp cần thiết. Tính năng OC Genie tính hợp sẵn giúp người dùng đơn giản việc ép xung CPU chỉ cần một nút bấm cũng là một tính năng hay và đáng giá. Tuy nhiên, thiết nghĩ hãng sản xuất nên tích hợp thêm card WLAN để bổ sung kết nối WiFi và Bluetooth tích hợp cho bo mạch, giống như dòng Z87i mà họ đang có, từ đó giúp người dùng đơn giản việc dùng dây mạng LAN hoặc USB WiFi, tiết kiệm không gian và chi phí hơn.


Bloomberg: Apple sẽ giới thiệu iPhone màn hình cong vào năm tới

curve.
Hình minh họa iPhone với màn hình cong

Tờ báo uy tín Bloomberg hôm nay trích dẫn thông tin từ những nguồn thân cận cho rằng Apple đang phát triển hai nguyên mẫu iPhone mới, đặc biệt là có màn hình cong và sẽ trình làng vào năm 2014 tới. Cũng theo nguồn tin, thế hệ iPhone mới sẽ có hai kích thước màn hình gồm 4”7 và 5”5, rõ ràng là nó lớn hơn iPhone 5s hiện tại và sẽ cạnh tranh trực tiếp với những smartphone Android màn hình to. Thời điểm ra mắt chính xác được Bloomberg dự đoán là khoảng quý 3 năm 2014.

Hai chiếc iPhone mới theo nguồn tin sẽ có kích thước màn hình gần tới ngưỡng của Galaxy Note 3, tức có thể coi nó là phablet. Không chỉ có màn hình lớn, iPhone mới được cho sẽ có công nghệ màn hình cong giống Galaxy Round của Samsung hay LG Flex. Hai model mới vẫn đang được Apple phát triển và kế hoạch vẫn chưa hoàn thành, nguồn tin này cho biết thêm.

Bên cạnh thông tin về iPhone mới, Bloomberg tiết lộ thêm rằng Apple đang phát triển công nghệ cảm ứng mới cho thiết bị của họ. Kể từ 2007, Apple đã hợp tác với TPK Holding của Đài Loan để phát triển công nghệ cảm ứng trên iPhone, iPad. Màn hình cảm ứng của Apple trong tương lai sẽ có công nghệ cảm biến mới cho phép nhận diện lực nhấn xuống màn hình nhạy và chính xác hơn. Tuy nhiên, công nghệ mới này chưa thể sẵn sàng cho iPhone năm 2014 mà nó sẽ dành cho model của những năm tiếp theo.


iPad Air có thể coi phim liên tục gần 12 tiếng!

Tinhte_ipad air_1.

Cảm giác dùng iPad Air khác biệt khá nhiều so với các đời trước, không chỉ ở việc cầm nắm với thiết kế mới mà còn ở sự thoải mái nhờ tốc độ cao cũng như ở nhiệt độ của máy. Trong tất cả các bài thử nghiệm mà mình làm thì nhiệt độ vẫn là yếu tố làm mình thích nhất, do máy không quá nóng, ngay cả khi chơi games lâu thì nó cũng chỉ ấm lên chút mà thôi. Vỏ nhôm giúp giải nhiệt rất tốt, nhiệt độ giảm nhanh và không làm tay bạn khó chịu.

Về tốc độ xử lý, có một điểm là mình khó chịu đó là mỗi khi đang chơi games mà thoát ra màn hình home thì các hiệu ứng hơi giật giật, trái ngược hoàn toàn với điểm số benchmark rất cao của iPad Air này. Hiện tượng giật này chỉ xảy ra khi bạn thoát từ games ra màn hình, còn khi chơi games hay sử dụng bất cứ phần mềm nào khác thì nó vẫn rất mượt.

Do iOS khác với Android nên mình không có nhiều phần mềm hỗ trợ để thực hiện các bài thử nghiệm, vì thế xin lỗi anh em là không có đo nhiệt độ cụ thể trong từng thời điểm được. Nhưng thực ra cũng không quan trọng lắm, như đã nói ở trên, nhiệt độ của máy rất tốt và bạn hoàn toàn có thể không quan tâm đến nó. Cái cần quan tâm là: đến thời điểm này iPad Air là chiếc máy có thời lượng pin tốt nhất mà mình đã thử nghiệm.

Các bài thử nghiệm được thực hiện với độ sáng màn hình cố định ở mức 50%.

tinhte_ipad air-1.

Thử nghiệm cho khỉ dùng não điều khiển mô hình ảo và cơ hội cải tiến bộ phận giả cho người tàn tật

mô_hình_khỉ.
Mô hình khỉ ảo trên máy tính.

Hy vọng cho những ai mất khả năng vận động 2 tay gần đây đã được nhen nhóm khi nhiều viện nghiên cứu đã bắt đầu phát triển các loại tay giả có thể điều khiển bởi ý nghĩ. Cho đến hiện tại, tất cả những hệ thống như vậy chỉ cho phép người đeo điều khiển một bên tay duy nhất và đối với nhiều hoạt động mà chúng ta thực hiện hàng ngày thì điều này vẫn chưa đủ. Tuy nhiên, trong thời gian tới, các hệ thống chân tay giả có thể sẽ được cải tiến nhờ một thí nghiệm trên khỉ. Cụ thể là mới đây, các nhà nghiên cứu tại đại học Duke, Bắc Carolina đã thành công trong việc khiến 2 chú khỉ nâu vận dụng cùng lúc 2 tay của một mô hình đại diện trên máy tính chỉ bằng ý nghĩ.

Nhóm nghiên cứu do tiến sĩ sinh học thần kinh Miguel Nicolelis đã khởi đầu bằng việc quan sát hoạt động của gần 500 nơ-ron thần kinh trong của 2 bán cầu não của 2 chú khỉ. Một trong 2 chú khỉ được dạy cách sử dụng đôi tay điều khiển các núm xoay vật lý để di chuyển cánh tay của một con khỉ ảo trên màn hình máy tính. Sau đó, chú khỉ này tiếp tục được huấn luyện để điều khiển 2 cánh tay ảo của nhân vật trên màn hình bằng cách cử động 2 tay mà không cần đến núm điều khiển. Cuối cùng, các nhà nghiên cứu buộc 2 tay khỉ lại và chỉ cho nó điều khiển bằng ý nghĩ. Một máy tính sẽ giải mã hoạt động thần kinh của khỉ và thực hiện chuyển động tương thích với 2 cánh tay ảo.

Chú khỉ thứ 2 sẽ liên tục theo dõi hành vi được thực hiện bởi mô hình ảo và sau đó thực hiện thử nghiệm dùng não để điều khiển 2 cánh tay ảo trực tiếp mà không phải qua các bước luyện tập như chú khỉ đầu tiên. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các ứng dụng cho con người bởi hầu hết người dùng không có khả năng bắt đầu làm quen bằng việc luyện tập với những chuyển động thực tế của cánh tay.

Một khi 2 chú khỉ đã quen với việc dùng trí não để điều khiển mô hình ảo, các nhà nghiên cứu nhận ra rằng vùng vỏ não của chúng trở nên mềm dẻo hơn. Họ gợi ý rằng những chú khỉ đã kết hợp cánh tay ảo trên màn hình vào hình ảnh cơ thể của chúng hay nói một cách khác, chúng nghĩ rằng 2 cánh tay ảo đó là cánh tay thật.

Thêm vào đó, nhóm nghiên cứu cũng phát hiện khi những chú khỉ thực hiện hoạt động bằng 2 tay, hoạt động thần kinh tương ứng không chỉ đơn giản là các hoạt động ra lệnh cho chỉ riêng tay phải hay riêng tay trái. Theo họ, có một thứ gì đó hoạt động khi cả 2 cánh tay được sử dụng cùng lúc và điều này có thể mở ra cơ hội để phát triển các bộ phận giả điều khiển bằng ý nghĩ tiến tiến hơn.

Nghiên cứu của đại học Duke đã vừa được đăng tải hôm qua trên tạp chí Science Translational Medicine. Tất cả những phát hiện này sẽ được sử dụng vào dự án Walk Again - một nổ lực hợp tác để phát triển một bộ xương máy (exoskeleton) hỗ trợ cho người tàn tật có thể điều khiển bằng não.


[Infographic] So sánh vui về hệ thống kinh tế hàng-đổi-hàng của các chế độ và doanh nghiệp

header.

Câu “Bạn có hai con bò” xuất xứ từ một ví dụ hài hước trong giáo trình môn kinh tế trình độ cơ bản. Đó là chuyện một anh nông dân không sở hữu tiền mà chỉ có thể đổi gia súc của mình lấy mặt hàng khác. Phiên bản tiêu biểu nhất là: “Bạn có hai con bò, bạn lại muốn có gà; bạn cất công đi tìm một người nông dân có gà đồng thời muốn có bò”. Mục đích của những ví dụ này nhằm chỉ ra sự hạn chế của hệ thống hàng-đổi-hàng và dẫn dắt đến sự cần thiết của tiền tệ.

Những câu chuyện đùa "tam sao thất bản" từ ví dụ này bắt đầu nảy sinh từ năm 1944 và được nhiều người yêu thích do chúng châm biếm những nét tính cách tiêu biểu của các nền văn hóa thuộc nhiều quốc gia, tôn giáo, chế độ…

Infographic dưới đây sẽ giới thiệu đến bạn những nội dung thú vị về hệ thống hàng-đổi-hàng của các chế độ, và trong các doanh nghiệp của các quốc gia.

Ban co 2 con bo va su lua chon cua ban than.


Steve Jobs đã làm như thế nào để giúp iPad thành công?

steve-jobs-ipad.

Hiện nay iPad đã ra đến đời thứ 5, đó chính là chiếc iPad Air. Trong suốt 3 năm kể từ khi chiếc iPad đầu tiên được Steve Jobs đem ra giới thiệu, chúng ta đã thấy được sự thay đổi của thế giới khi nói về dòng máy này, từ những hoài nghi và chê bai ban đầu cho đến việc trở thành mẫu tablet thống trị thị trường máy tính bảng trên toàn cầu. Vậy vì sao iPad có thể thành công đến như thế trong khi những tablet đi trước gần như thất bại hoàn toàn, và cựu CEO Steve Jobs đã làm gì để giúp xây dựng sự thành công đó? Trang Wired đã có cuộc một chuyến đi ngược dòng lịch sử để giúp chúng ta giải đáp những câu hỏi này.

Tạo ra "thể loại thiết bị thứ ba" mà thế giới cần

Wired mở đầu với câu nói: "Giải pháp mà Steve Jobs đưa ra để đối phó với chiến lược hiện diện khắp mọi nơi của Android rất đơn giản và táo bạo: ông giới thiệu chiếc iPad". Thực chất thì trước đó ít ai nghĩ rằng Apple sẽ công bố iPad bởi vì 7 năm trước đó, chính Jobs từng nói với tờ Wall Street Journal rằng "hóa ra người dùng thích bàn phím... chúng tôi đã nhìn vào tablet và nghĩ rằng nó sẽ thất bại". Nhưng rõ ràng ông đã suy nghĩ lại điều này. Nếu như Google đang có ý định giành chiến thắng về chiều rộng thì Jobs lại muốn thắng về chiều sâu của thị trường di động.

Andy Rubin, trưởng bộ phận Android lúc bấy giờ, có tham vọng đưa Android vào nhiều máy nhất có thể, giống như chiến lược Bill Gates đã thực hiện với Windows. Rubin "không quan tâm đến việc sản phẩm nào sẽ trở thành những cút hit lớn, những sản phẩm nào thì không", miễn là tổng số thiết bị Android tăng trưởng là được, the Wired viết. Còn với Jobs và chiến lược của Apple, để iOS phát triển theo chiều sâu thì mỗi sản phẩm chạy OS này được tung ra đều phải là một cú hít, nếu không Apple sẽ thấy bại ngay.

Trong khi những quan chức cả trong và ngoài Apple tự hỏi rằng liệu Jobs có sai lầm khi đóng iOS quá kín hay không, cũng như những gì ông làm với Mac, thì Jbbs thực tế lại khép kín nền a3nf của mình hơn nữa. Bắt đầu từ năm 2010, Wired nói rằng Jobs đã yêu cầu sử dụng dùng con ốc vít đặc biệt trong nhiều sản phẩm Apple để khiến cho những ai không sở hữu cây vít đặc biệt thì không thể nào mở máy của ông ra được. Điều này nghe có vẻ bình thường, nhưng còn với những người làm ở Thung lũng Silicon thì không. Jobs đi ngược lại với việc sử dụng các tiêu chuẩn về ốc sẵn có, và tất nhiên là hoàn toàn trái ngược với sự linh hoạt cả phần cứng và phần mềm của đối thủ Android.

Có thể nhiều người sở hữu điện thoại Android hơn là số người đang xài iPhone, nhưng những người đang có iPhone thì có thể sẽ có thêm iPad, iPod Touch, Mac và vài ba sản phẩm khác của Apple chạy chung một nền với nhau. Tất cả chúng đều kết nối vào cùng một kho nội dung trực tuyến, và tất cả đều tạo ra lợi nhuận khổng lồ cho Apple. Chỉ có những người có chỉ số tự tin cực cao như Jobs mới dám đặt cược vào việc này. Jobs đã ra mắt iPad như một cách giúp khách hàng của mình hoàn thiện mảnh ghép cuối cùng trong hệ sinh thái phần cứng-phần mềm mà họ đang có.

Chỉ vài phút sau khi Jobs ra mắt thế hệ iPad đầu tiên vào ngày 27/1/2010, ông đã nói rõ với thế giới về mục đích của iPad. Trong slide thuyết trình của Jobs có hình ảnh một chiếc iPhone, một chiếc MacBook, và một dấu hỏi ở ngay chính giữa hai sản phẩm này. Ông đưa ra một câu hỏi ngắn gọn: "Liệu có chỗ cho một thể loại thiết bị thứ ba ở giữa hay không?" Sau đó ông nói: "Có vài người nghĩ rằng đó sẽ là netbook. Vấn đề là netbook chẳng tốt ở điểm gì cả. Chúng hoạt động chậm, có màn hình chất lượng thấp, lại chạy phần mềm dành cho PC nặng nề và già cỗi (chính là Windows). Chúng không tốt hơn laptop ở điểm gì hết. Chúng chỉ rẻ hơn mà thôi".

Theo Jobs và Apple, nhiều người không mua laptop để làm những như công việc văn phòng như viết lách, soạn thảo bài thuyết trình, phân tích tài chính bằng các bảng tính. Họ sử dụng laptop của mình chủ yếu là để giao tiếp với người khác qua email, tin chát, xài Twitter, Facebook, duyệt web và đọc sác, xem phim, nghe nhạc, chơi game. Jobs nói rằng tất cả những việc này đều có thể làm trên chiếc iPhone, tuy nhiên màn hình của iPhone quá nhỏ để có thể thưởng thức những thứ này một cách thoải mái. Bạn cũng có thể làm tất cả chúng với một chiếc laptop, nhưng bàn phím và trackpad khiến máy trở nên cồng kềnh, thời lượng pin ngắn thì buộc bạn phải ngồi sát bên ổ cắm điện để sạc máy.

Thứ mà thế giới cần là là một thiết bị ở giữa có khả năng kết hợp điểm tốt của cả hai thứ - một thiết bị "thân quen hơn laptop, và phải làm được thật nhiều việc hơn smartphone", Jobs nói. "Chúng tôi nghĩ chúng tôi đã có câu trả lời", và thế là hình ảnh iPad xuất hiện rồi nằm gọn giữa iPhone và MacBook trên slide thuyết trình.

Ipad_san_khau.

Trong một hàng dài tablet đi trước, vì sao iPad thành công hơn?

Ở những buổi đầu ra mắt, không nhiều người cảm thấy cuốn hút bởi vẻ ngoài của iPad. Thay vào đó, nhiều người muốn xem liệu một nhà khởi nghiệp tài năng nhất thế giới, chính là Jobs, có đang phạm một sai lầm khổng lồ hay không. Máy tính bảng là một trong những loại thiết bị điện tử tiêu dùng đã xuất hiện từ lâu nhưng nó chưa bao giờ thành công. Nhiều người đã từng cố gắng xây dựng nên những chiếc tablet ngay cả trước khi PC ra đời. Họ cố gắng rất nhiều lần trong lời xì xầm rằng việc phổ biến tablet là không thể.

Alan Kay, người từng làm cho công ty Xerox PARC, đã ra mắt ý tưởng về chiếc máy tính bảng Dynabook năm 1968. Bản thân Apple từng tạo ra một nguyên mẫu tablet mang tên "Bashful" hồi năm 1983 nhưng chưa bao giờ ra mắt nó. Chiếc tablet đầu tiên thực sự thu hút được sự chú ý của người tiêu dùng đến từ Jeff Hawkins, người đứng sau chiếc PalmPilot. Ông đã xây dựng nên chiếc GRiDPad, một chiếc máy tính bảng dùng bút với khả năng đa dạng gần giống máy tính, vào năm 1989. Tới năm 1993, công ty GO Corp. tiếp tục sự nghiệp tablet với chiếc EO nhưng cũng không gây được làn sóng mạnh mẽ nào.

gridpad-right.
GRiDPad


Đến năm 1994, Apple ra mắt chiếc Newton, nhưng thật không may, đây chính là lời giải thích cho việc tablet chẳng thể nào bán tốt. Nó cũng là sản phẩm tượng trưng cho kỉ nguyên Apple không nằm dưới sự dẫn dắt Jobs, kỉ nguyên mà Apple đã gần như phá sản với hàng loạt các sản phẩm thất bại. Năm 1997, Jobs quay lại công ty của mình và một trong những thứ mà ông dẹp bỏ ngay chính là dự án Newton. Ở thời điểm đó, nếu bạn thích một thứ gì đó có sức mạnh của máy tính nhưng phải gọn nhẹ thì xin mời mua laptop. Tất cả những thứ khác phục vụ cùng mục đích này thì lại quá đắt tiền.

Bashful.
Apple Bashful

Quay trở lại chiếc PalmPilot, mẫu PDA từng một thời nổi tiếng và được nhiều người xài ngay cả ơ Việt Nam, đã thành công trong thời điểm cuối những năm 1990 là do nó không cố gắng để làm quá nhiều thứ. PalmPilot chỉ phục vụ những tính năng bổ trợ đúng với cái tên của mình - thiết bị trợ lý nhỏ gọn.

Nỗ lực tiến vào thị trường tablet mới đây nhất là của Bill Gates khi ông còn làm CEO của Microsoft hồi năm 2002. Rất nhiều máy tính bảng Windows đã xuất hiện từ nhiều hãng khác nhau. Chúng cũng được nhiều người chọn mua, nhưng không phải là những người tiêu dùng phổ thông. Đến tận năm 2009, tablet vẫn được bán nhưng không có thiết bị nào thật sự ghi được ấn tượng với thế giới.

Tất cả những điều nói trên khiến tablet trở thành một thứ mang tính rủi ro cao, ngay cả với Jobs, trong bối cảnh Android đang cạnh tranh gay gắt với iOS. Nhưng nó cũng là thách thức hoàn hảo để Jobs đứng ra giải quyết. Ông là người đã định nghĩa lại máy tính cá nhân, định nghĩa lại máy nghe nhạc cá nhân và cả điện thoại thông minh. Giờ đây, Jobs đã thật sự định nghĩa lại tablet bằng chiếc iPad. Nó có thể làm gần như mọi thứ mà laptop có thể làm, trong khi nhẹ hơn rất nhiều, thời gian dùng pin gần gấp ba. Không thể không kể đến việc iPad có màn hình cảm ứng giống như iPhone, không cần phải tắt và luôn luôn kết nối vào Internet. Về phía người tiêu dùng, họ chẳng phải học hỏi gì thêm bởi iPhone và các smartphone cảm ứng đang có nhiều thị trường, chưa kể rằng phần mềm và ứng dụng của iPad cũng giống iPhone nữa.

Về mặt kĩ thuật, chúng ta có thể xem iPad giống như là một chiếc iPhone. Phần cứng tương tự, cấu hình tương tự, phần mềm cũng tương tự nốt. Nhưng điểm khác biệt giữa chúng chính là trải nghiệm người dùng, và sự khác biệt này là rất lớn. Điện thoại từ trước đến nay đã được thiết kế để nằm gọn trong túi quần của người dùng và có thể được điều khiển bằng ngón tay. Những thứ to như iPad thì trước đây đòi hỏi phải xài bút hay chuột hoặc bàn phím, không phải bằng ngón tay của người dùng. Hàng loạt tablet Windows ở năm 2009, 2010 vẫn đòi hỏi xài stylus để nhập liệu. Ở buổi giới thiệu năm 2010, cựu trưởng nhóm iOS là Scott Forstall đã nói" "Nếu bạn thấy thứ gì đó, bản chỉ cần đưa ngón tay chạm vào. Nó hoàn toàn tự nhiên, bạn chẳng cần phải nghĩ đến nó. Bạn cứ thế mà làm."

Phản ứng lúc đó của mọi người với iPad là "ồ" và "à". Tờ Economist đã từng đặt hình ảnh Jobs như một vị thánh đang cầm iPad với tiêu đề "Cuốn sách của Jobs: hi vọng, cường điệu và iPad của Apple".

Nhưng vì sao mọi người lại hoài nghi quá nhiều ở buổi đầu?

Là cha đẻ của Macintosh, Jobs có "sự tín nhiệm" hơn bất kì ai khác trong việc định nghĩa lại PC và thách thức những lời đồn thổi xung quanh tablet. Một người bạn ẩn danh của Jobs nói với The Wired như sau: "Steve ghét sự thực là Macintosh không trở nên phổ biến - là mọi người không sẵn sàng đổ mồ hôi để có được một cái. Thế nên chúng tôi đã nói nhiều về việc làm thế nào để người ta nhìn vào là muốn có iPad ngay".
Apple_iPad_1.

Trái ngược lại, phản ứng của những ngày đầu sau khi iPad xuất hiện lại chẳng mấy đặc biệt, hoặc có thể nói là nhiều người vẫn hững hờ với nó. Có nhiều bài viết nói về việc iPad không có camera, không thể chạy đa nhiệm (với iOS 3 lúc đó), thậm chí còn bị bêu rếu rằng iPad là tên một sản phẩm dành cho phụ nữ. Ngoài ra còn có nhiều người nói là iPad giống iPhone, có điều lớn hơn bốn lần. Jobs thì nói "tôi không nhận xét về sản phẩm của đối thủ", còn chủ tịch Eric Schmidt của Google thì nói đùa "bạn sẽ phải nói cho tôi nghe sự khác biệt giữa một chiếc điện thoại lớn và một chiếc tablet". Bill Gates của Microsoft thì cho biết "tôi vẫn nghĩ rằng sự tổ hợp của giọng nói, bút và bàn phím thật sẽ là thứ trở nên phổ biến. iPad là một công cụ đọc tốt, nhưng không có thứ gì trên iPad mà tôi nhìn vào và ước rằng Microsoft đáng ra nên làm theo".

Nhưng chỉ trích lớn nhất thực chất lại là thứ mà Jobs đã nói tới trong bài thuyết trình của mình: Vì sao tôi lại cần iPad?

Sự hoài nghi từ mọi người cũng là dễ hiểu bởi từ trước đến nay chưa ai từng thấy một thiết bị giống iPad, trong chiếc đầu tiên thì phải hai tháng sau mới bán ra. Người dùng biết rõ họ cần điện thoại và laptop để làm gì bởi vì chúng đã có mặt một thời gian dài, trong khi những chiếc tablet đã có trên thị trường lúc bây giờ thì không phải là thứ mà người dùng muốn.

Ngay cả những người làm việc với iPad ở Apple cũng không khỏi hoài nghi, ví dụ như cựu kĩ sư Jeremy Wyld. Ông là người đã góp công phát triển phần mềm cho iPad và iPhone. "Tôi nhớ là lúc mới thấy nó, tôi nghĩ nó như là một cục đá, nói thật với bạn luôn. Tôi nghĩ 'Thứ này hết sức ngu xuẩn'." Wyld nói vậy cũng có lý do, bởi ông cũng là một trong những người đầu tiên tạo ra chiếc Apple Newton hồi những năm 1990.

Khi Wyld nhìn vào iPad, tất cả những gì ông thấy là một chiếc iPhone lớn hơn và không còn nằm gọn trong túi của bạn nữa. "Tôi thường thấy rằng khi bạn làm một thứ gì đó lớn hơn, người ta không còn thích nó nữa". Nhưng Wyld cũng nhìn vào iPad và thấy rằng đây thật sự là một kiểu laptop mới. Việc làm màn hình to ra chính là tất cả những gì Apple cần để tạo nên một thiết bị mới và mạnh mẽ như thế.

Việc màn hình to ra cũng là rất quan trọng với Joe Hewitt, lập trình viên viết ra ứng dụng Facebook cho iPhone hồi năm 2007 và giúp xây dựng trình duyệt Firefox vào năm 2002. Một ngày sau khi iPad ra mắt, Hewitt đã viết một bài post trên blog của mình dài 900 để nói rằng iPad là thứ quan trọng nhất mà Apple từng làm. Một năm trước đó, Hewitt là người phản đối kịch liệt chính sách ứng dụng đóng của Apple, nhưng những kinh nghiệm phát triển phần mềm của mình cho nhiều thiết bị và nền tảng khác nhau đã nói cho Hewitt biết rằng iPad sẽ giải quyết được một vấn đề căn bản.

Joe_Hewitt.
Joe Hiwitt

Ông nói:

Hành trình đi vào trung tâm của vũ trụ thiết bị di động

Không như quá trình phát triển cực kì nhanh chóng của iPhone, hành trình của iPad kéo dài từ những năm 2002, theo lời Jobs nói rằng cây bút Isaacson khi viết về tiểu sử của mình. Điều trái ngược đã diễn ra trong quá trình Apple thiết kế iPad. Thứ khó khăn nhất về mặt kĩ thuật, chính là màn hình cảm ứng đa điểm, lại là thứ tiến xa nhất, trong khi điều tưởng chừng dễ nhất, chính là việc thiết kế phần còn lại của máy, lại bị mắc kẹt nghiêm trọng.

Một trong những người đã tạo ra "lực kéo" cho việc phát triển màn hình cảm ứng multitouch chính là Josh Strickon. Anh từng làm ra một màn hình multitouch dạng thô cho luận văn thạc sĩ của mình tại đại học MIT nổi tiếng. Vào năm 2003, Josh cùng với Steve Hotelling và Brian Huppi (hai nhân viên của Apple) đã tìm được cách khiến cho công nghệ này trở nên tốt hơn. Nhóm thiết kế nên dự án này, được gọi là nhóm Q79, muốn có được 2 triệu USD tiền đầu tư từ Apple

Vào lúc bấy giờ, một bo mạch lớn với kích thước 60 x 60cm có nhiệm vụ ra lệnh cho màn hình phản hồi lại thao tác chạm của ngón tay. Nhiệm vụ của Q79 đó là phải làm sao biến đống đồ cồng kềnh này thành một con chip duy nhất có thể nằm gọn trong thiết bị di động. Phiên trình diễn của nhóm đã diễn ra tốt đẹp, nhóm thậm chí còn cho thấy rằng bàn phím ảo như thế nào, các thao tác mở ngón tay sẽ hoạt động ra sao. Cuối cùng dự án cũng được Apple chấp thuận.

Vấn đề đó là những thành phần phần cứng khác của tablet lại vô dụng. Nhiều năm trước, những vi xử lí dùng trong thiết bị di động chưa đủ mạnh để chạy một phần mềm có khả năng hấp dẫn người dùng. Tablet khi đó cũng cần đến đĩa cứng, vốn chiếm quá nhiều không gian, bởi vì bộ nhớ flash dung lượng cao còn quá đắt tiền. Nếu gom hết những công nghệ đó thì chúng ta chỉ có thể tạo ra một thứ không nhẹ hơn nhiều so với laptop, không rẻ hơn mấy, và pin cũng chẳng có gì ấn tượng. Thế là Apple quyết định bỏ dự án này đi, sau đó vài năm thì Jobs khôi phục nó để làm ra iPhone. Chỉ đến khi iPhone ra đời vào năm 2007 thì Jobs mới cân nhắc lại về việc kinh doanh tablet.

Nói cách khác, nếu không có iPhone thì iPad sẽ không tồn tại, nhưng dự án iPad lại chính là khởi nguồn nguyên thủy nhất của iPhone. Năm 2007, nếu bạn bán một thiết bị với giá 600$ thì điều đó gần như không thể xảy ra. Các con chip ARM chưa đủ mạnh để chạy phần mềm trên một màn hình lớn như thế. Ngoài ra, quan trọng hơn, nếu chưa có đủ nội dung và ứng dụng thì người dùng cũng chẳng biết phải làm gì với chiếc tablet mình đang cầm trong tay.

Nhưng đến năm 2009 thì công nghệ đã sẵn sàng cho máy tính bảng. Cuối cùng thì thế giới cũng đã có những con chip với băng thông rộng, sức xử lí tốt, người ta cũng đã tạo ra được những viên pin với thời lượng dài để khiến tablet trở nên thật sự hữu dụng. Màn hình cảm ứng đa điểm đã chứng minh sự thành công cực kì to lớn trên iPhone, thế nên ý tưởng về việc dùng bàn phím ảo để viết email hoặc ghi địa chỉ web không còn xa lạ. Bởi vì Apple bán được rất nhiều iPhone nên giá linh kiện cũng theo đó giảm xuống mức dễ chấp nhận hơn.

Liệu iPad sẽ là một chiếc iPhone phóng to hay một thứ hoàn toàn khác biệt?

Câu hỏi còn lại mà Jobs phải giải đáp cho bằng được vào năm 2009 đó là chiếc tablet mà ông muốn sẽ là một thiết bị như thế nào? Liệu nó có phải là một chiếc iPhone với màn hình lớn hay hay cần một kho ứng dụng riêng đủ để tách nó làm một thứ mới và khác biệt hoàn toàn? Lúc đầu Jobs nghiêng về hướng đi làm cho iPad trở thành một chiếc iPhone lớn. Jobs chỉ suy nghĩ đơn giản đây là một thiết bị tiêu dùng, theo một người bạn giấu tên. Bạn cũng sẽ không thể biên tập tài liệu hay bảng tính gì trên đó cả, thậm chí người bạn này còn sợ rằng iPad sẽ biến thành một thiết bị chủ yếu để đọc sách và duyệt web giống kiểu máy Kindle. Lúc đó, Jobs nghĩ mọi người đang ngày càng ít đọc sách hơn, và những người thích đọc sách thì vẫn khoái cầm trên tay một quyển sách giấy hơn là xài ebook.

Eddy Cue, phó giám đốc mảng iTunes, và Phil Schiller, trưởng nhóm marketing toàn cầu của Apple, là hai trong số những người quan trọng giúp Jobs làm rõ câu hỏi nói trên. Schiller thúc giục Jobs chỉnh sửa cái nhìn của ông về một "thiết bị tiêu dùng". Nếu một người nào đó gửi cho bạn một tài liệu, một bài thuyết trình hay một bảng tính, người dùng iPad cần phải xem và chỉnh sửa được nó. Trong khi đó, Cue lại muốn thay đổi về ebook của CEO Jobs. Amazon Kindle đang có sức mạnh cực mạnh, người đọc đang download ebook với tốc độ nhanh chóng mặt. Cue từng nói hồi tháng 6 năm nay rằng khi ông thảo luận với Jobs về ebook, Jobs đã nói "anh biết không, tôi nghĩ là anh đúng đó...". Sau đó Jobs bắt đầu tự suy nghĩ về những ý tưởng để phát triển iPad cho tốt hơn theo hướng mà Eddy Cue và Phil Schiller đã gợi ý.

ipad_iwork.

Cue nói rằng hiệu ứng cong cong khi lật trang trong ứng dụng iBook chính là ý tưởng của Jobs. Cuốn sách Winnie-the-Pooh miễn phí đi kèm theo iBooks cũng là do Jobs đề xuất bởi ông nghĩ nó sẽ trình diễn hết khả năng của ứng dụng đọc sách này. "Nó có những hình vẽ đẹp và đầy màu sắc mà chưa có một quyển sách hay thiết bị đọc sách điện tử nào có được".

Và sự thành công của iPad

Khi chiếc iPad đầu tiên bán ra vào tháng 4/2010, người ta thấy rõ ràng những hoài nghi của thế giới đã không đúng. Apple bán được 450.000 chiếc iPad trong tuần đầu tiên, 1 triệu chiếc sau một tháng đầu tiên và 19 triệu đơn vị trong năm đầu. Phải mất đến 6 tháng Apple mới bắt kịp với tốc độ mua iPad của khách hàng, và năm 2011 iPad đã chiếm lấy ngôi vị thiết bị điện tử bán chạy nhất của đầu chơi đĩa DVD.

Trong vòng 1 năm kể từ khi iPad được ra mắt, Jobs cũng đã lo lắng nhiều về sự tăng trưởng của Android. Trong giai đoạn 2009-2010, Android giữ mức độ phát triển nhanh chóng mặc, may thay là doanh số iPhone cũng tăng nhanh như thế. Năm 2011, Apple kiếm được 33 tỉ USD, bằng doanh thu của Google và Microsoft cộng lại, và trở thành công ty có giá trị lớn nhất thế giới, hơn cả ông trùm dầu mỏ Exxon. Một năm trước đó, hãng đã vượt mặt Microsoft để trở thành công nghệ công nghệ lớn nhất thế giới. Giá trị của Apple khi đó là 100 tỉ USD và nếu Apple xài số tiền đó để mở ngân hàng thì hãng sẽ trở thành một trong 10 ngân hàng lớn nhất toàn cầu.

Đáng chú ý, khoảng giữa năm 2011, iPad đã trở thành một thiết bị mang tính cách tân còn hơn cả iPhone và iPad. iPod và iTunes đã thay đổi cách người ta mua và nghe nhạc, iPhone thay đổi những gì người dùng kì vọng ở một chiếc smartphone hiện đại. Còn iPad, nó lật ngược cả 5 ngành công nghiệp cùng lúc: nó thay đổi cách người ta mua sách, báo, tạp chí, đổi cá cách người ta xem phim và xem TV.

Trong khi đó, nhóm Android của Google quyết định đánh trả không thương tiếc bất kì phát minh mới nào của apple. Nhưng năm 2011, Google vẫn còn bị Apple đánh bại ở nhiều phương diện. Đúng là có nhiều người dùng Android hơn lượng người xài iPad cộng với iPhone, nhưng những thiết bị của Apple vẫn tốt hơn, nền tảng của Apple vẫn vượt trội hơn và nhất là số lượng ứng dụng tối ưu hóa cho tablet của Apple thì hoàn toàn đè bẹp bên phía Android. Mãi đến bây giờ Google cũng còn đang bỏ ra rất nhiều nỗ lực để lập trình viên phát triển nên phiên bản tablet thực sự cho ứng dụng của họ.

Kết

Vượt trên tất cả những thứ đó, iPad đã một lần nữa thay đổi việc kinh doanh thiết bị điện toán cá nhân. iPad nói riêng và tablet nói chung đang ăn lấy thị phần của PC cũng như cách mà PC chiếm lấy thị phần của minicomputer/mainframe vào những năm 1980. Đúng như lời dự báo của Jobs, nhiều người dùng đã xài iPad như một thiết bị điện toán thứ ba bên cạnh điện thoại và laptop. Một số người khác thậm chí còn không mua laptop, và đó chính là thành công của iPad. Ngày nay tuy thị phần của iPad đã giảm nhưng nó vẫn là tablet được nhiều người ưa chuộng với thị phần 30% trên toàn cầu.


Nhiều studio game kí hợp đồng sử dụng Mantle API, cuộc đua đang nghiêng về phía AMD?

amd-mantle-api.

AMD mới đây cho biết có 3 đối tác phát triển game lớn trên thế giới là Cloud Imperium, Eidos-Montreal (thuộc Square Enix Group) và Oxide Games đã kí hợp đồng với họ để sử dụng hàm lập trình Mantle API trong việc phát triển những game mới của họ, dành cho PC và 2 thế hệ console next-gen là PS4 và Xbox One. Mantle API sẽ giúp các nhà phát triển này tận dụng sức mạnh của GPU và APU của AMD dựa trên AMD GCN, vốn đang được họ sử dụng để phát triển nên những thế hệ card đồ họa gồm HD 7000/7000M series HD 8000/8000M series, Radeon R7 và Radeon R9 series.
Hiểu đơn giản theo hình minh họa của AMD thì ví dụ Trái Đất có 4 lớp, thì vi kiến trúc GCN là lõi của hành tinh - chính là phần cứng máy tính, card đồ họa Radeon; Mantle Driver (trình điều khiển Catalyst) là lớp bên trên; Mantle API là phần đệm và các ứng dụng đồ họa và lớp ngoài cùng. Tóm tại, Mantle API là một hàm lập trình cấp trung gian, thứ kết nối giữa phần cứng và các ứng dụng đồ họa, ví dụ game, phần mềm design, đồ họa... Hàm API này tương thích với tất cả những phần cứng được phát triển từ vi kiến trúc GCN, tức là từ thế hệ GPU Radeon HD 7000 trở lên, bao gồm cả 2 dòng máy console next-gen PlayStation 4 của Sony và Xbox One của Microsoft.

Để phát triển nên một ứng dụng đồ họa, ví dụ game, nhà phát triển cần tận dụng một hoặc nhiều hàm lập trình API, phổ biến hiện nay có OpenGL của Khronos Group và DirectX của Microsoft. Phần lớn các game phát triển cho PC lẫn console đều ứng dụng 2 bộ API này. Tuy nhiên, OpenGL và DirectX lại "quá cao cấp", có thể tương thích với rất nhiều ngôn ngữ lập trình, phần cứng máy tính, từ GPU của AMD cho đến nVIDIA, Intel đều hỗ trợ 2 bộ API này. Do đó, cái nào ôm đồm quá nhiều chức năng thì dẫn đến hiệu quả thường không đạt được tối đa. Chính vì vậy, AMD đã phát triển ra Mantle API, nhằm tối ưu hóa cho vi kiến trúc GCN và thế hệ GPU hiện nay của họ.

mantle-api.
  • Lý do Mantle API ra đời
Để cạnh tranh với đối thủ, bạn phải có ít nhất 1 "át chủ bài", với AMD, họ có Mantle API để cạnh tranh với nVIDIA. Như chúng ta đã biết, 3 thế hệ máy chơi game để bàn (console) sắp tới đây gồm Wii U, PS4 và X1 (chính thức bán ra giữa tháng 11) đều sử dụng GPU do AMD phát triển. Đặc biệt là PS4 và X1, cả 2 đều sử dụng CPU lẫn GPU thế hệ mới của AMD dựa trên kiến trúc GCN. nVIDIA từng sai lầm khi từ chối phát triển GPU cho PS4, bởi họ chê thương vụ này quá rẻ, không đáng để bỏ công ra làm, nhưng họ đã lầm, vì với việc chiến thắng 2 hợp đồng làm GPU cho cả PS4 và Xbox 1, uy tín của AMD đã tăng chóng mặt. Thêm nữa, gần đây những tựa game đỉnh đều được dán nhãn "chơi tốt hơn với card đồ họa của AMD", ví dụ Crysis 3, Tomb Raider, Bioshock: Infinite, Far Cry 3, Battlefield 4...

Từ trước tới nay có một thực tế là rất nhiều tựa game đình đám được các studio phát triển cho console trước, sau đó mới port qua cho PC, thậm chí có nhiều game chỉ được làm riêng cho PlayStation hoặc Xbox. Trong khi đó, với việc GPU của mình xuất hiện trên PS4 và X1, chắc chắn một điều là các studio phát triển game bắt buộc phải sử dụng hàm lập trình Mantle API của AMD để tối ưu cho game của mình, tận dụng phần cứng của console tốt hơn. Chưa bàn tới việc GPU của nVIDIA mạnh hơn hay của AMD mạnh hơn, nhưng AMD đã xuất hiện trên 2 hệ console next-gen trong khi nVIDIA chỉ đánh mạnh vào PC và mobile, điều này đã giúp AMD dẫn trước đội áo xanh 1-0. Vì vậy, tâm lý của người dùng cũng sẽ phần nào nghiêng về AMD, khi mà một game nào đó được tối ưu cho GPU của AMD, thì dĩ nhiên chọn card đồ họa thương hiệu này là một lựa chọn sáng suốt nếu muốn chơi game mượt mà.

Tuy nhiên, trên đây chỉ là những phỏng đoán mang tính ngắn hạn trong vài năm tới. Biết đâu, nVIDIA sẽ có một bước đột phá mới, thu hút các studio quay lại với họ, tiếp tục hỗ trợ card đồ họa GeForce như trước đây. Chúng ta hãy cùng chờ xem.


MoliPlayer Pro - giải pháp xem phim, nghe nhạc đa định dạng cho WP8, giá 2,99 USD

MoliPlayer_Top.

Một điểm hạn chế của nền tảng Windows Phone là các trình chơi nhạc/phim mặc định của nó khá giới hạn về định dạng file trong khi các ứng dụng thứ 3 hỗ trợ đa định dạng lại khá hiếm. Trước tình thế phải chờ đợi "dài cổ" với lời hứa hẹn của VLC cho một phiên bản trên WP thì hôm nay, chúng ta đã có một giải pháp khác đến từ Moli Time Technology với ứng dụng MoliPlayer Pro.

MoliPlayer Pro là một ứng dụng xem phim có mặt trên nhiều nền tảng với hơn 100.000 lượt tải trên Android. MoliPlayer có thể chơi hầu hết các định dạng phim/nhạc, qua đó tạo sự thuận tiện cho bạn khi giải trí với các nội dung đa phương tiện trên điện thoại. Với phiên bản dành cho Windows Phone 8, ứng dụng có thể mở tập tin đa phương tiện được lưu trên bộ nhớ máy, thẻ nhớ SD và có thể duyệt từ thư mục Camera roll cũng như cho phép bạn chép video từ máy tính sang điện thoại qua kết nối Wi-Fi.

Các tính năng của ứng dụng bao gồm:
  • Hỗ trợ hầu hết các định dạng video: avi, mkv, mp4, h.264, rmvb, wmv, flv, ts, m2ts, vob, v.v…
  • Hỗ trợ hầu hết các định dạng nhạc: aac, mp3, ape, flac, ogg, v.v…
  • Hiển thị hầu hết các định dạng phụ đề, dạng nhúng hoặc rời: srt, ssa, ass v.v…
  • Quản lý video trong nhiều thư mục;
  • Truyền tải không dây nội dung từ máy tính sang điện thoại qua Wi-Fi
  • Giao diện hỗ trợ điều kiển bằng cử chỉ, vuốt để tăng giảm âm lượng, độ sáng màn hình v.v…
Tuy nhiên, MoliPlayer Pro lại không cho dùng thử và bạn phải mua. Ứng dụng được bán với giá gốc là 3,99 USD nhưng Moli Time đang khuyến mãi, giảm 25% nên giá còn 2,99 USD. Và để đỡ mất thời gian cũng như kiểm tra chất lượng ứng dụng trước khi các bạn quyết định mua thì mình đã làm "chuột bạch". Dưới đây là một số hình ảnh về thử nghiệm của mình với MoliPlayer Pro:



Giao diện của MoliPlayer Pro khá đơn giản, theo phong cách chung của WP. Tuy nhiên, hiệu năng và tính năng của MoliPlayer Pro đúng như quảng cáo. Mình đã thử với nhiều định dạng file như .mkv, .webm, .flac, .flv - những định dạng được người dùng ưa thích nhưng không được WP hỗ trợ và kết quả là MoliPlayer Pro đều chạy ngọt. Ngoài ra, tính năng truyền tải file qua Wi-Fi cũng hoạt động ổn định, tốc độ truyền tải nhanh. Hy vọng rằng trong thời gian tới, Moli Time sẽ cho phép dùng thử có quảng cáo để MoliPlayer trở nên phổ biến hơn. Mình cũng hy vọng là VLC sẽ sớm ra mắt phiên bản miễn phí cho WP để "bằng anh bằng em".


Tamron đang phát triển lens 150-600mm f/5-6.3 Di VC USD dành cho Canon, Nikon và Sony

Tamron-SP-150-600mm-F5-6.3-Di-VC-USD-lens.

Tamron hôm nay vừa tuyên bố rằng hãng đang phát triển ống kính SP 150-600mm f/5-6.3 Di VC USD để thay thế cho ống Tamron 200-500 f/5-6.3 hiện có trên thị trường. Với tiêu cự dài như thế, lens SP 150-600mm nhắm đến các nhiếp ảnh gia muốn chụp cảnh hoa dã, chim chóc, chụp thể thao và các đối tượng khác ở khoảng cách xa. Khi gắn trên các máy DSLR dùng cảm biến APS-C, tiêu cự sẽ được nhân thành 233-930mm. Tamron tiết lộ rằng ống này sẽ có 20 thấu kính xếp thánh 13 nhóm, trong đó hai thấu kính tán xạ thấp ở nhóm đầu tiên và một cái nữa ở nhóm thứ ba. Sản phẩm cũng có lớp phủ eBAND Coating hứa hẹn giảm hiện tượng lóa và bóng ma khi chụp dưới nguồn sáng ngược.

Khi chụp ở tiêu cự dài thì dễ bị rung, do đó Tamron trang bị cho SP 150-600mm cơ chế chống rung VC (Vibration Compensation) giống nhiều lens khác của hãng. Việc lấy nét được hãng quảng cáo là sẽ rất êm ái, nhanh chóng và chính xác nhờ mô-tơ siêu thanh USD (Ultrasonic Silent Drive). Ống cũng có ngàm gắn tripod.

Hiện Tamron chưa tiết lộ ngày và giá bán của SP 150-600mm f/5-6.3 Di VC USD, hãng chỉ nói rằng sẽ tặng kèm phần mềm xử lí ảnh RAW "SILKYPIX Developer Studio for Tamron" khi mua ống kính này. Lens sẽ có các phiên bản tương thích với ngàm của máy ảnh Canon, Nikon và Sony.


Intel mua lại Kno, công ty chuyên cung cấp phần mềm giáo dục và giáo trình điện tử

kno_sach_dien_tu_Intel.
Intel mới đây đã mua lại công ty một doanh nghiệp công nghệ hoạt động trong lĩnh vực giáo dục với tên gọi Kno. Công ty khởi nghiệp này chuyên cung cấp các phần mềm dùng trong môi trường học đường và theo lời Intel thì Kno đang sở hữu "một thư viện nội dung số trên toàn cầu với 225.000 đầu sách đại học, trung học và tiểu học thông qua việc bắt tay với 75 nhà xuất bảo giáo dục". Intel cho biết thêm rằng việc mua lại này sẽ cung cấp thêm sức mạnh cho nỗ lực mang công nghệ vào trong lớp học mà hãng đã theo đuổi một thời gian dài. Chi tiết của mua bán, kể cả số tiền mà Intel đã chi ra để mua Kno, không được tiết lộ.

Còn theo trang TechCunch, toàn bộ nhóm Kno sẽ gia nhập vào Intel, chỉ trừ CEO và đồng sáng lập Osman Rashid. John Galvin, quản lý trưởng bộ phận Intel Education, chia sẻ là ông đã từng nói chuyện với Osman về thương vụ này, tuy nhiên "nơi tôi muốn hướng Kno tới và nơi Rashid muốn không giống nhau. Hướng đi của anh ấy là tiếp tục tập trung vào thị trường Bắc Mỹ, còn tôi muốn mở rộng ra toàn cầu, và để chúng tôi thực hiện điều đó thì Kno phải phối hợp với nhóm bán hàng của Intel để mang sản phẩm ra nhiều thị trường mới".