HP Slate 21 là chiếc máy tính để bàn All-in-One (AiO) với màn hình cảm ứng, độ phân giải fullHD, và đặc biệt là chạy trên nền tảng Android 4.2. Một chiếc máy tính để bàn chạy Android mang lại trải nghiệm khá mới mẻ và thú vị. Nếu bạn đang xài smartphone hay tablet Android thì khi chuyển sang sử dụng Slate 21 sẽ thấy quen thuộc, và có thể sử dụng tài khoản Google để nhanh chóng thiết lập máy cũng như tải về các ứng dụng thường dùng. Giá bán của HP Slate 21 là 9.500.000 đồng, một mức giá khá hợp lý.
Thiết kế
HP Slate 21 có thiết kế khá giống với dòng máy AiO TouchSmart cũng của HP. Mặt trước máy là viền màu trắng, còn phần đế là chiếc loa dts Sound+, ngoài ra còn có một webcam HD ở giữa đỉnh máy. Ở cạnh phải là 1 cổng cắm USB, khe cắm thẻ nhớ mở rộng và giắc cắm tai nghe 3,5”. Mặt sau máy chúng ta còn có 2 cổng USB 2.0 khác, 1 cổng Ethernet và giắc cắm nguồn để máy hoạt động.
Thiết kế đặc biệt nhất của HP Slate 21 chính là chiếc chân chống có thể gập ngã từ 15 đến 70 độ, cho phép ngã máy ở nhiều góc độ khác nhau phục vụ cho cả nhu cầu dùng nó như là một chiếc PC hay là tablet. Đi kèm trong hộp máy còn có bàn phím, chuột và cục adapter để cấp nguồn cho máy hoạt động. Bàn phím và chuột có thiết kế khá đẹp, cảm giác gõ phím là tốt.
Cấu hình
HP Slate 21 được trang bị màn hình cảm ứng 21,5” fullHD, tấm nền IPS, cho khả năng hiển thị tốt. Cảm ứng của máy nếu so với những chiếc tablet chuyên dùng hay smartphone thì có thể không mượt bằng, tốc độ đáp ứng khi chơi những trò như chém trái cây là chưa thực sự tốt. Dù vậy khi ngã máy ở góc thấp thì bạn có thể dùng nó như một chiếc tablet mà không cần đến bàn phím và chuột đi kèm.
HP Slate 21 được trang bị bộ vi xử lý Nvidia Tegra 4 lõi tứ, tốc độ 1,66GHz, RAM 1GB DDR3, ổ lưu trữ 8GB và chạy trên nền tảng Android 4.2. Mặc dù máy chỉ có bộ nhớ trong 8GB nhưng các bạn có thể dễ dàng nâng cấp thêm dung lượng thông qua khe cắm thẻ nhớ hoặc dùng ổ cứng di động gắn ngoài.
Sử dụng
Cảm giác sử dụng Android trên một chiếc máy lớn là khá mới mẻ, đặc biệt là khi vừa có màn hình cảm ứng, vừa có bàn phím và chuột. Nếu muốn sử dụng như tablet thì bạn có thể thao tác ngay trên màn hình cảm ứng, còn nếu không muốn đứng gần quá thì chuột và bàn phím sẽ giúp bạn thao tác thoải mái như là đang ở trên PC.
HP Slate 21 nặng 4,85kg, chưa bao gồm bàn phím và chuột, có thể di chuyển dễ dàng từ phòng này qua phòng khác và phù hợp với mục đích sử dụng trong gia đình. Máy vừa có thể phục vụ tốt cho mục đích giải trí và làm việc, cũng như liên lạc với bạn bè và người thân thông qua các ứng dụng mạng xã hội hay chat. Ngoài ra thì nó có thể phù hợp cho việc quản lý ở các quán ăn, nhà hàng, thay thế cho các bộ máy để bàn.
Giá bán hiện tại của một chiếc HP Slate PC 21 là 9,5 triệu đồng, một mức giá khá hợp lý cho một chiếc máy Android có cấu hình tốt, phục vụ nhiều mục đích sử dụng khác nhau.Cập nhật: giá của sản phẩm này theo HP Việt Nam là 9,5 triệu đồng.
Thứ Hai, 25 tháng 11, 2013
[Trên tay] Máy tính All-in-one HP Slate 21 - màn hình cảm ứng, 21,5", full HD, Android 4.2, giá 9,5t
Chủ tịch Google: Hướng dẫn đổi điện thoại Android từ iPhone
Eric Schmidt, chủ tịch của Google vừa đăng tải lên trang Google+ của mình hướng dẫn về việc đổi một qua dùng một chiếc điện thoại mới chạy Android từ iPhone, bởi theo Eric thì hiện đang có rất nhiều người thân, bạn bè của ông chuyển qua nền tảng này. Vị này cho rằng những thế hệ điện thoại Android cao cấp mới của các hãng Motorola, LG, Samsung, HTC... hiện nay có màn hình lớn hơn, chất lượng và độ phân giải cao hơn, vì vậy chúng là những món quà Noel thích hợp cho những người đang xài iPhone. Dưới đây là các bước hướng dẫn đổi qua điện thoại Android do Eric tự tay hướng dẫn, đơn giản và nhanh chóng mà chúng ta có thể tham khảo:
Bước 1: Cài đặt mới điện thoại Android
- Bật nguồn. Kết nối WiFi. Đăng nhập tài khoản Gmail. Sau đó chúng ta đã có thể tải ứng dụng từ Play Store.
- Kiểm tra xem điện thoại có bản cập nhật mới không, nếu có thì nó thường được báo trong Notification.
- Bạn có thể thêm nhiều tài khoản email khác nữa, ví dụ Gmail, Yahoo, Microsoft Exchange...
Bước 2: Chuyển dữ liệu từ iPhone qua
- Đăng nhập Gmail trên iPhone. Cập nhật phiên bản hđh mới nhất cho iPhone của bạn.
- Bật iCloud để sao lưu dữ liệu của máy, bao gồm cả danh bạ.
- Đồng bộ danh bạ trong máy của bạn lên Gmail.
- Dùng iTunes trên máy tính để sao lưu toàn bộ dữ liệu trong iPhone của bạn.
- Nếu trong iPhone của bạn có hình ảnh, video thì bạn cần sao lưu nó bằng tay và đồng bộ qua máy Android sau.
Theo mặc định thì trên điện thoại Android sau khi đăng nhập tài khoản Gmail sẽ tự động bật đồng bộ danh bạ, email, do đó những thứ này sẽ được kéo trên Gmail về điện thoại Android của bạn. Nếu danh bạ chưa tự kéo về Android, bạn có thể làm bằng tay bằng cách sau:
- Đăng nhập tài khoản iCloud, chọn mục danh bạ (Contacts).
- Ở góc bên trái, chọn tất cả (Select all) và xuất ra file dạng vCard.
- Đăng nhập Gmail, cũng chuyển qua mục Contacts.
- Nhập file danh bạ vCard đó vô Gmail bằng cách Import Contacts. Xóa các mục danh bạ trùng nhau bằng "Find & Merge Duplicates".
Liệu chỉ có thiết kế và tính năng mới làm nên sự thành công cho các thiết bị đeo được?
Trong thời gian gần đây chúng ta được nghe nói rất nhiều đến các thiết bị có thể đeo được (wearable), từ những vòng tay theo dõi sức khỏe như FitBit, Misfits cho đến những đồng hồ thông minh như Sony Smartwatch, Pebble, Omate và thậm chí là kính thông minh như Google Glass. Loại thiết bị này cũng thu hút được sự chú ý của nhiều công ty lớn như Apple, Samsung, Asus, LG… kèm theo đó là hàng loạt tin đồn, tin rò rỉ về wearable. Vậy làm thế nào một công ty wearable có thể thành công trong thị trường non trẻ này? Cây viết Craig Hajduk từ trang Wired, một cựu nhân viên Microsoft, người giúp xây dựng chiến lược kinh doanh cho các ý tưởng mới về công nghệ của công ty Artefact và cũng là một nhà khởi nghiệp, đã có những chia sẻ khá thú vị về điều này.
Theo Hajduk, hiện nay thị trường điện tử tiêu dùng và đồ trang sức là hai lĩnh vực kinh doanh cực kì khó cạnh tranh bởi nó đã có quá nhiều công ty lớn với đầy kinh nghiệm. Thế mà thiết bị đeo được lại kết hợp cả hai thị trường này lại với nhau, thế nên sự thành công là một điều càng khó hơn nữa.
Thường thì người ta sẽ nghĩ rằng thiết kế chính là bí quyết để thắng lợi trong thị trường này, tuy nhiên có một thứ thường bị bỏ qua, đó chính là mô hình kinh doanh. Theo Hajduk thì đây mới chính là yếu tố giúp công nghệ wearable thật sự cất cánh, chứ không thì thể loại thiết bị này cũng chỉ là một công nghệ tuyệt vời đang mãi loanh quanh đi tìm mục đích sử dụng thật sự cho mình. Và ngay cả khi nó giúp người dùng giải quyết được một số vấn đề nào đó, vẫn còn lại một câu hỏi chưa có lời đáp: làm thế nào các công ty có thể kinh doanh một cách bền vững với các sản phẩm wearable?
Chúng ta có thể lấy việc kinh doanh nhạc số của Apple như một ví dụ tốt khi mà mô hình kinh doanh có sức ảnh hưởng mạnh đến sự thành công một sản phẩm. Apple hiểu rõ rằng cái cảm giác sở hữu là cực kì quan trọng đối với nhạc số, và hãng đã tập trung nguồn lực của mình nhằm làm ra một dịch vụ (iTunes) có khả năng giúp người dùng mua và sở hữu nhạc một cách nhanh chóng và trực quan nhất có thể. Nhiều chuyên gia từng dự đoán rằng các dịch vụ nghe nhạc online rồi sẽ đánh bại iTunes bởi nó rẻ hơn và có nhiều nhạc hơn. Tuy nhiên, khi không có được cảm giác sở hữu thì về lâu dài, rất khó để người dùng nắm bắt được giá trị của việc nghe nhạc. Đó cũng là lý do mà nhiều người vẫn khoái download nhạc về máy nghe hơn là nghe online.
Kết quả của việc thiết lập nên một mô hình kinh doanh như thế quá rõ ràng đối với Apple: trong quý vừa rồi, iTunes đã mang lại 4 tỉ USD cho công ty, trong khi những dịch vụ nghe nhạc online hay thuê nhạc thì đang lâm vào cảnh khó khăn.
Giống với thị trường nhạc số, các công ty wearables cần hiểu rõ khách hàng của mình kì vọng gì ở những công nghệ và thiết bị đeo được. Chúng ta không thể chỉ tạo ra một sản phẩm đẹp tuyệt vời nhưng không mang lại giá trị gì cho người dùng. Thứ mà thị trường cần là những vật đẹp, xịn và đồng thời có thể giúp khách hàng nhận ra được mục tiêu mà chúng thật sự được sinh ra để đạt được.
Một trong những thứ quan trọng nhất đối với thiết bị wearable hiện nay đó là tính tiện ích. Chúng ta có rất nhiều chiếc vòng đeo tay có thể đo nhịp tim, lượng calo đã đốt cháy, hướng di chuyển, vị trí, địa điểm… Tất cả những dữ liệu này lúc đầu sẽ làm cho người dùng cảm thấy hứng thú. Tuy nhiên, về lâu dài thì lợi ích của wearable còn vượt xa hơn những thông số nói trên, dẫn đến việc người dùng sẽ sử dụng nó trong một thời gian dài. Người ta sẽ mua các thiết bị như thế để có được thân hình gọn gàng hơn, sức khỏe tốt hơn, vui vẻ hơn. Như lời Aaron Filner, quản lý sản phẩm của Facebook, thì “nếu một thiết bị không thể giúp người dùng thay đổi hành vi của mình, người ta sẽ tiếp tục sử dụng nó trong bao lâu? Nó cần phải tạo ra được sự khác biệt để trở nên có giá trị trong dài hạn”.
Bởi vì các công nghệ wearable được thiết kế để thu về những kết quả tích cực trong dài hạn, các mô hình kinh doanh của những công ty wearable cũng phải thay đổi để bám theo nó. Ví dụ: nếu giá trị thật sự của thiết bị đeo được nằm ở những dịch vụ đi kèm thì thay vì bán một thiết bị với giá thật đắt, các công ty có thể bán thiết bị miễn phí chung với hợp đồng sử dụng dịch vụ trong vài năm, hoặc kèm theo các chế độ huấn luyện sức khỏe, tư vấn dinh dưỡng… Nếu bạn bán một thiết bị có khả năng đo hoạt động thể chất cũng như chế độ dinh dưỡng của khách hàng, bạn có thể nghĩ đến chuyện dùng những dữ liệu này để tạo ra kế hoạch luyện tập, ăn uống phù hợp cho từng người một. Những mô hình kinh doanh như thế không chỉ giúp mang lại nguồn “trợ cấp” cho thiết bị, mà nó còn giúp tạo dựng mối quan hệ dài lâu giữa khách hàng với công ty nữa.
Smartphone, tablet, laptop hiện đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Wearable rồi cũng sẽ như thế, nhưng nó gắn kết với người dùng theo một cách khác. Nó sẽ “dính” với chúng ta nhiều hơn, và cuối cùng sẽ trở thành một trong những thứ giúp tạo nên hình ảnh cá nhân của mỗi người. Hãy thử tưởng tượng thế này: lúc bạn đeo một chiếc smartwatch từ Sony, Google, Apple thì hình ảnh của bạn trong mắt người khác chắc chắn sẽ không giống như khi bạn đeo smartwatch từ một hãng ít tên tuổi nào đó. Nói rộng ra, người dùng sẽ nhìn và nhận dạng các sản phẩm wearable theo cùng cách mà họ nhìn nhận về các hãng thời trang, trang sức. Khi đó, mọi sự lựa chọn của khách hàng đều có ý nghĩa nhất định của nó và gắn kết với cá nhân người đã mua.
Điều này có nghĩa là việc thiết lập nên mối quan hệ với khách hàng thật sự là điều quan trọng đối với các công ty sản xuất thiết bị wearable. Các công ty trước đây dành nhiều sức lực cho mặt kĩ thuật hay tính năng sẽ buộc phải thay đổi để tồn tại trong một thị trường như thế. Một người may mắn được sở hữu Google Glass từng nói với tờ The New York Times rằng: “tôi thích chúng lắm, chúng thật đáng kinh ngạc, nhưng tôi cảm thấy như một thằng khách người khi đeo Glass ở nơi công cộng”. Còn nếu bạn đang đi dạo ngoài đường và đeo tai nghe Beats By Dre thì khác. Beats làm ra những tai nghe có thiết kế mang tính biểu tượng, họ cũng định vị sản phẩm và thương hiệu của mình nhằm tạo ra một mối quan hệ bền chặt với người dùng ngay từ khi bắt đầu kinh doanh. Đó cũng là lý do vì sao Beats nhanh chóng trở thành doanh nghiệp “tỉ đô” chỉ trong thời gian ngắn.
Việc thay đổi theo hướng “đồng cảm sâu sắc” với người dùng sẽ là thứ cho phép các công ty wearable tiếp cận tốt hơn với khách hàng của mình, từ đó xây dựng nên một sản phẩm còn hơn cả hữu ích. Còn việc xây dựng một mối liên kết về mặt cảm xúc thì còn vượt xa hơn cả bản thân sản phẩm nữa. Ngoài ra, việc chọn lựa các đối tác phân phối có “đẳng cấp” và “thương hiệu” phù hợp với mục đích và nguồn lực công ty cũng là một cách giúp tăng lượng khách hàng nhanh chóng cho các hãng wearable, đồng thời đảm bảo công ty vẫn có thời gian tập trung cho sản phẩm của mình.
Dan Pingree, phó chủ tịch bộ phận marketing của công ty quần áo Moosejaw, từng chỉ ra rằng “một thứ mới, lạ và cách tân sẽ là chiến thắng lớn đối với công ty bán lẻ nào đang muốn tạo dựng một mối liên kết với khách hàng của mình.” Nói cách khác, những đối tác về kênh phân phối cũng rất sẵn lòng phối hợp với các công ty wearable bởi nó mang lại lợi ích về khách hàng cho họ, thì dại gì mà họ bỏ qua. Với những công ty nhỏ lẻ mới khởi nghiệp trong ngành wearable thì đây sẽ là một điều mà họ cần quan tâm nếu muốn việc kinh doanh của mình thành công.
Nói tóm lại, kẻ thành công thật sự trong cuộc đưa về wearable sẽ là những công ty và sản phẩm có khả năng cung cấp tiện ích cho người dùng, giúp họ đạt được một mục tiêu nào đó, và song song đó, phải tạo dựng mối liên kết bền vững với khách hàng. Đó là lý do mà vì sao các công ty rất hăng hái tham gia vào lĩnh vực non trẻ này. Đây cũng là lý do vì sao người ta rất chờ đợi Apple và Samsung nhảy vào và làm ra những thiết bị wearable thật thụ bởi hai công ty này rất biết cách tạo dựng quan hệ với khách hàng và biến một thứ tưởng chừng như không hữu dụng trở thành một thứ dính với người dùng hằng ngày. Ngoài ra, kẻ thắng cuộc còn phại xây dựng nên mô hình kinh doanh tốt cho mình nữa. Chúng ta hãy cùng chờ đợi xem điều gì sẽ diễn ra.Nguồn: Wired
Amazon đang phát triển Kindle Paperwhite mới với màn hình tốt hơn, ra mắt vào Q2/2014?
Kindle Paperwhite nhiều khả năng sẽ có sự thay đổi lớn về mặt phần cứng vào năm sau
TechCrunch vừa mới đây đã tiết lộ rằng Amazon đang thử nghiệm và phát triển chiếc máy đọc sách Kindle Paperwhite thế hệ mới (có tên mã là Ice Wine) với nhiều cải tiến và nâng cấp về phần cứng. Đầu tiên, nguồn tin cho hay Kinle Paperwhite mới sẽ có thiết kế ở mặt sau góc cạnh hơn so với bản cũ - tương tự như chiếc Kindle Fire HDX hiện nay - nút nguồn của máy cũng được đặt ở mặt lưng. Tiếp đến là phần màn hình, Paperwhite thế hệ kế tiếp có thể sẽ được trang bị một màn hình phẳng hơn, mặt gương, và cho mật độ điểm ảnh lên đến 300ppi - cao hơn bất kỳ thiết bị đọc sách dùng màn hình E-Ink nào trên thị trường.
Ngoài ra, font chữ trên Paperwhite mới cũng được Amazon cải tiến, trong đó có một font chữ hoàn toàn mới được thiết kế riêng cho chiếc máy đọc sách này. Amazon cũng được cho là đã cải thiện cách hiển thị câu chữ trên màn hình Paperwhite mới, những chữ dài ở cuối đoạn văn giờ đây sẽ có dấu gạch nối nối tiếp.
Chưa hết, TechCrunch cũng khẳng định rằng Paperwhite thế hệ tiếp theo sẽ được trang bị nút bấm bên cạnh máy, và những nút này thực chất là giúp thiết bị phát huy tác dụng của công nghệ Haptic Feedback (phản hồi xúc giác). Về lý thuyết thì công nghệ này sẽ giúp người đọc sách không cần phải dùng ngón tay chuyển trang như trước đây, mà chỉ cần tương tác với các nút bấm (cụ thể như thế nào thì chúng ta phải chờ những thông tin rõ ràng hơn).
Cuối cùng, Kindle Paperwhite có tên mã "Ice Wine" này nhiều khả năng sẽ được Amazon tích hợp cảm biến ánh sáng, giúp màn hình máy có thể tự động diều chỉnh độ sáng tuỳ thuộc vào môi trường bên ngoài. TechCrunch cho rằng Amazon sẽ chỉ cải tiến nhiều ở phần cứng đối với Paperwhite mới, mà không chú trọng quá đến phần mềm.
Amazon dự kiến sẽ tung ra Kindle Paperwhite thế hệ kế tiếp vào Q2/2014.
Intel: thế hệ co-processor Xeon Phi kế tiếp sẽ có thể hoạt động như một CPU độc lập
Bộ co-processor Xeon Phi hiện nay
Hiện nay Intel có một dòng sản phẩm dùng cho các hệ thống đòi hỏi khả năng tính toán mạnh mẽ, đó là co-processor Xeon Phi. Tuy nhiên, đây chỉ là một bộ xử lí phụ có tác dụng bổ trợ cho vi xử lí trung tâm nên vẫn phải dùng kèm với một CPU nữa thì mới có thể hoạt động. Điều này sẽ thay đổi với thế hệ Xeon Phi kế tiếp mang tên mã "Knights Landing" dự kiến ra mắt trong năm 2015. Con chip sản xuất trên dây chuyền 14nm này sở hữu khả năng hoạt động độc lập nên có thể chạy hệ điều hành và những phần mềm khác như một CPU thực thu, song song đó vẫn đảm bảo thực thi tốt tác vụ tính toán dấu chấm động, xử lí đồ họa, xử lí tín hiệu, xử lí chuỗi, mã hóa... như một co-processor.
Intel cho biết thêm rằng khách hàng có thể xài Knights Landing như CPU hay co-processor (thông qua giao tiếp PCI-Express) tùy mục đích của mình. Bên cạnh đó, Intel cũng sẽ tích hợp các đường nội liên kết mới, khả năng truy cập bộ nhớ dễ dàng hơn và vài cải tiến khác về mặt kiến trúc để giúp sản phẩm của mình trở nên khác biệt so với các bộ co-processor dạng card đồ họa do NVIDIA hay AMD sản xuất.
Do không phải di chuyển dữ liệu giữa hai linh kiện với nhau, Knights Landing hứa hẹn mang lại tốc độ tín toán nhanh hơn, giảm độ trễ, rẻ hơn và dễ lập trình hơn. Việc sử dụng sản phẩm này cũng giúp giảm kích thước và chi phí vận hành (làm mát, điện năng, nhân sự...) của những hệ thống siêu điện toán như siêu máy tính chẳng hạn.Nguồn: Intel
Trò nuôi thú ảo tái xuất với tên gọi Tamagotchi Friends, cho chọn nhiều nhân vật, chạm để tương tác
Nuôi thú ảo (Tamagotchi) là một trong những trò chơi rất phổ biến vào những năm cuối thập niên 90 mặc dù bây giờ nó không còn nhận được nhiều sự quan tâm nữa. Và để kỉ niệm sản phẩm này lên tuổi 17, Bandai mới đây đã ra mắt một thiết bị nuôi thú ảo mới mang tên "Tamagotchi Friends". Nó trông vẫn giống như trước đây khi sở hữu thiết kế bầu tròn, có màn hình đơn sắc ở giữa và các nút điều khiển, tuy nhiên điểm khác đó là người chơi có thể chọn một trong số nhiều "nhân vật" để nuôi. Ngoài ra, thiết bị còn được tích hợp "kết nối tầm gần" cho phép chạm hai máy Tamagotchi Friends với nhau để gửi tin nhắn, trao đổi quà, cho hai nhân vật hẹn hò cũng như tương tác với nhau. Tamagotchi Friends sẽ được bán ra trên toàn cầu vào năm sau với giá chưa được tiết lộ.Nguồn: Bandai
Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013
[Mỗi tuần 1 phát minh] Lịch sử chiếc máy tính bỏ túi
Chiếc máy tính bỏ túi là dụng cụ học tập quen thuộc đối với nhiều thế hệ học sinh - sinh viên. Ngoài một công cụ hỗ trợ đắc lực trong việc học tập và thi cử, máy tính còn được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khác như kinh doanh, tài chính và trong nhiều lĩnh vực chuyên môn khác. Một thiết bị đơn giản có thể thay thế bạn tính toán những phép tính đơn giản mà không cần dùng phương pháp truyền thống là viết ra giấy hay tính nhẩm. Máy tính giúp con người thực hiện được các phép tính chính xác và nhanh chóng hơn. Đằng sau thiết bị hữu ích và đơn giản này là cả một quá trình nghiên cứu, cải tiến và chế tạo từ đơn giản đến phức tạp của nhiều nhà phát minh. Chuyên mục "mỗi tuần 1 phát minh" tuần này mời các bạn ngược thời gian về 2000 năm về trước và cùng nhìn lại lịch sử phát triển của thiết bị hữu ích này từ chiếc bàn tính sơ khai ban đầu đến chiếc máy tính khoa học chuyên dụng nhé.
Máy tính cơ học - Tiền thân của máy tính điện tử
Công cụ tính toán số học đầu tiên được biết đến là chiếc bàn tính (Abucus) được sử dụng bởi những người Sumer, người và người Ai Cập vào 2000 năm trước công nguyên. Sau đó, bàn tính được sử dụng rộng rãi ở các nước Châu Á, châu Phi và nhiều vùng lãnh thổ khác chủ yếu bởi các thương nhân.Chiếc bàn tính của người La Mã
Đến thời kỳ Phục Hưng, năm 1642, thiên tài toán học Blaise Pascal (1623-1662) phát minh ra máy tính cơ học, thiết bị đầu tiên có thể thực hiện các phép tính cơ bản mà không cần sử dụng trí tuệ của con người. Thiết bị có thể thực hiện trực tiếp phép tính cộng và trừ, phép nhân và chia được thực hiện theo phương pháp lặp lại nhiều lần phép cộng.Máy đếm của Pascal có kèm theo chữ ký của ông vào năm 1652Video mô tả cách hoạt động của máy đếm Pascal
Theo sau Pascal là Gottfried Leibniz (1646-1716), nhà toán học người Đức đã dành 40 năm để thiết kế máy tính cơ học có thể thực hiện được 4 phép tính cơ bản cộng, trừ, nhân, chia một cách trực tiếp. Công trình của ông chỉ dừng lại ở bánh xe Leibniz mà chưa đưa ra được một cỗ máy tính toán hoàn thiện. Bánh xe Leibniz là một ống hình trụ với các rãnh bên ngoài có độ dài tăng dần được dùng để đếm số lần quay của bánh răng. Bánh xe Leibniz nổi tiếng này được tiếp tục sử dụng rộng rãi trong các máy tính cơ khí cho đến khi máy tính điện tử ra đời.Hoạt động của bánh xe Leibniz
Đến thế kỷ 18, thế giới chứng kiến được nhiều cải tiến thú vị từ chiếc máy tính cơ ban đầu. Đặc biệt phải kể đến là chiếc đồng hồ tính toán có khả năng thực hiện được 4 phép tính của Giovanni Poleni (1683-1761), một nhà vật lý và toán học người Ý, nhưng đây chỉ là một đóng góp cho sự phát triển của máy tính chứ chưa phải là một thiết bị hoàn chỉnh. Mãi cho đến thế kỷ 19 với cuộc các mạng công nghiệp mới là thời kỳ máy tính cơ được phổ biến rộng rãi. Thời gian này, những chiếc máy tính cơ trong quá khứ được đưa vào sản xuất công nghiệp với số lượng lớn và mẫu mã hiện đại hơn.Đến năm 1820, máy đếm còn gọi là máy cộng dồn tích (Arithmometer hoặc Arithmomètre) được phát minh bởi nhà nhà phát minh người Pháp Thomas de Colmar (1785-1870). Đây là chiếc máy tính cơ đầu tiên đủ mạnh và độ tin cậy để sử dụng trong công việc hàng ngày tại các văn phòng. Thiết bị được cấp bằng sáng chế vào 1820 và sản xuất thương mại từ năm 1851. Arithmometer có thể thực hiện được chuỗi các phép cộng và trừ một cách trực tiếp, thực hiện phép nhân số lớn và cho ra kết quả được dồn tích và ghi trên một dải ruy băng. 40 năm sau, tính đến năm 1890 đã có khoảng 2500 chiếc máy đếm được sản xuất thương mại và bán ra thị trường. Đây là bước tiến quan trọng trong quá trình chuyển tính toán bằng trí tuệ con người sang sử dụng máy móc vào nửa sau thế kỷ 19.Máy cộng dồn tích Arithmomètre
Năm 1902, chiếc máy tính đầu tiên có sử dụng phím bấm mang tên Máy cộng Dalton được phát minh bởi nhà phát minh người Mỹ James L. Dalton (1833-1887).Máy tính có phím bấm đầu tiên của DaltonNăm 1948, Curt Herzstark (1902-1988), một kỹ sư người Australia đã phát minh ra máy tính cơ Curtas có khả năng thực hiện được 4 phép tính cơ bản, đồng thời có thể thực hiện được phép rút căn bậc 2 và một số phép toán khác dù khá khó khăn. Máy tính cơ Curtas kế thừa bánh xe đếm nổi tiếng của Leibniz kết hợp với máy đếm của Thomas để tạo nên một thiết bị tính hình trụ nhỏ gọn trong lòng bàn tay được vận hành bằng một tay quay phía trên. Dù giá thành sản xuất khá đắt tiền, Curtas được xem là máy tính cơ xách tay tốt nhất mãi cho đến sự ra đời của máy tính điện tử sau này.Máy tính cơ Curtas của Curt HerzstarkVideo phương pháp hoạt động của máy tính cơ Curtas
Sự ra đời của máy tính điện tử:
Các máy tính cỡ lớn đầu tiên có sử dụng ống chân không và sau đó là các transistor để giải các thuật toán logic xuất hiện vào những năm 1940 đến 1950. Công nghệ này là bước tiến vĩ đại cho sự hình thành của máy tính điện tử.
Vào năm 1957, công ty máy tính điện tử Casio, Nhật Bản cho ra đời máy tính Model 14-A. Đây là máy tính điện tử toàn phần với thiết kế nhỏ gọn đầu tiên trên thế giới. 14-A không sử dụng logic điện tử mà dựa trên công nghệ chuyển tiếp được tích hợp vào bàn điều khiển để giải quyết các phép tính.Hình ảnh chiếc máy tính Casio Model 14-A
Đến tháng 11 năm 1961, ANITA (A New Inspiration To Arithmetic/Accounting) máy tính giao diện điện tử toàn phần đầu tiên trên thế giới được công bố bởi công ty máy tính thương mại Anh Bell Punch. Cỗ máy này sử dụng các ống chân không, ống ca-tôt lạnh và Dekatron (ống khí đếm 3 giai đoạn) để giải quyết các phép toán. Màn hình hiển thị được chế tạo từ 12 ống ca-tôt lạnh tạo thành đèn Nexie. 2 Model của ANITA là MK VII và MK VIII được phổ biến rộng rãi khắp châu Âu và nhiều nơi trên thế giới vào đầu năm 1962. MK VII có thiết kế nhẹ và thực hiện được các phép nhân phức tạp. Sau đó MK VIII ra đời với thiết kế và cách vận hành đơn giản hơn. Tuy ANITA có đầy đủ bàn phím và áp dụng các thiết bị điện tử để thực hiện phép tính, nhưng vẫn hoạt động dựa trên nguyên lý đếm của các máy tính cơ đương thời. Chính vì lẽ đó, đến khi máy tính điện tử sử dụng thuật toán logic ra đời, ANITA nhanh chóng bị chìm vào quên lãng.Hình ảnh chiếc máy tính ANITA MK VIII
Đến năm 1963, công nghệ ống ca-tôt chân không của công ty Bell Punch được nhà sản xuất Friden của Mỹ thay thế bằng phương pháp sử dụng các transistor. Nhà sản xuất Friden cho ra đời mẫu máy tính EC-13 với màn hình CRT 13 cm hiển thị được 13 ký tự. EC-13 được giới thiệu đến thị trường với các ký pháp RPN (reverse Polish notation - Ký pháp toán học Ba Lan ngược) với giá 2200 USD, đắt hơn gấp 3 lần so với các máy tính cơ đương thời.Máy tính Friden C-13 của nhà sản xuất FridenVideo sử dụng máy tính Friden
Năm 1964, máy tính CS-10A sử dụng số lượng transistor lớn hơn được công ty Sharp giới thiệu. CS-10A nặng 25 kg và được bán ra thị trường với giá 500.000 Yên (khoảng 2500 USD). Cùng thời gian đó, công ty sản xuất máy công nghiệp Elttroniche của Ý giới thiệu máy tính IME 84 với bàn phím được bổ sung thêm và trang bị màn hình rộng hơn.
Tiếp theo đó là hàng loạt các mô hình máy tính điện tử đến từ các nhà sản xuất như Canon, Mathatronics, Olivetti, SCM (Smith-Corona-Marchant), Sony, Toshiba, và Wang. Các mẫu máy tính thời gian này đều sử dụng các transistor germanium (có giá rẻ hơn transistor silicon) gắn trên các bảng mạch điện tử. Các loại màn hình được sử dụng bao gồm màn hình CRT, ống ca-tôt lạnh và đèn filament. Máy tính thường sử dụng bộ nhớ trễ hoặc lõi từ tính. Bên cạnh đó, Toshiba cho ra đời máy tính Toscal BC-1411 sử dụng thành phần bộ nhớ hoạt động tương tự như một hệ thống RAM được ghép từ các linh kiện rời rạc. BC-1411 có thiết kế nhỏ gọn hơn và tiêu thụ năng lượng ít hơn.Hình ảnh chiếc máy tính Toscal BC-1411 của Toshiba
Năm 1965, công ty Olivetti giới thiệu Olivetti Programma 101, một máy tính chứa chứa chương trình được soạn sẵn cho phép đọc và ghi lên một thẻ từ đồng thời in kết quả thông qua một máy in được tích hợp bên trong. Programma được trang bị bộ nhớ, dây trễ âm có khả năng thực hiện thuật toán được lập trình sẵn qua từng bước, tích hợp sẵn các hàm số và có khả năng ghi dữ liệu. Programma 101 còn có khả năng đọc và ghi dữ liệu lên một thẻ từ. Đây chính là chiếc máy tính cá nhân đầu tiên (máy tính được lập trình sẵn cho những người dùng không biết lập trình) và đã được trao tặng nhiều giải thưởng công nghiệp.Máy tính Programma 101 của Olivetti
Một mẫu máy tính khác được giới thiệu vào năm 1965 là Bulgaria's ELKA 6521 được phát triển bởi Học viện công nghệ máy tính và được chế tạo tại nhà máy Elektronika, Sofia. ELK 6521 nặng 8 kg và là máy tính đầu tiên trên thế giới có thể thực hiện chính xác phép rút căn bậc 2. Cuối năm 1965, ELKA 22 ra đời với màn hình huỳnh quang và tiếp theo đó là ELKA 25 với máy in kết quả được tích hợp sẵn. Một số mẫu thiết kế sau đó với các cải tiến cũng được sản xuất cho đến khi ELKA 101 ra đời vào năm 1974 dù trọng lượng máy vẫn còn khá nặng.Mẫu máy tính Bulgaria's ELKA 6521
Cuối cùng, vào năm 1967, công ty máy tính vẫn còn nổi tiếng cho đến ngày nay là Texas Instrument đã phát triển máy tính mang tên Cal Tech có khả năng thực hiện 4 phép tính cơ bản và ghi kết quả hiển thị trên một băng giấy. Cal Tech chính là chiếc máy tính cầm tay đầu tiên trên thế giới với khả năng tính toán chính xác và đáng tin cậy.Máy tính "Cal Tech" của công ty nổi tiếng Texas Instrument
Giai đoạn thập niên 1970 đến 1980: Máy tính đã có thể bỏ túi!
Nếu các máy tính ở những năm 1960 với kích thướt lớn, sử dụng hàng trăm bóng bán dẫn trên nhiều bảng mạch, sử dụng nguồn điện 1 chiều, tiêu thụ lượng điện năng lớn thì trong giai đoạn 1970, sự ra đời của vi mạch và các chip điện tử là một giải pháp vô cùng đáng giá. Các nhà sản xuất đã nỗ lực tạo nên các bảng vi mạch với các bóng bán dẫn kích thướt nhỏ được tich hợp sẵn bên trong cho phép tạo nên các máy tính với kích thước nhỏ gọn hơn. Từ đó đã hình thành nên các liên minh công nghệ giữa Nhật và Mỹ bao gồm: Canon Inc. với Texas Instruments, Hayakawa Electric (sau này là tập đoàn điện tử Sharp) với Công ty vi điện tử Bắc Mỹ Rockwell, Busicom với Mostek và Intel, và General Instrument với Sanyo. Các liên minh công nghẹ đã tạo nên máy tính có kích thướt nhỏ và tiêu thụ điện năng ít hơn, có thể sạc được.
Tiếp theo thành công của Texas Instruments là các máy tính cầm tay có khả năng sạc đến từ Nhật Bản. Đó là "máy tính mini" ICC-0081 của Sanyo, Pocketronic của Canon và "Micro Compet" QT-8B của Sharp. Trong số các máy tính nêu trên, Pocketronic không có màn hình hiển thị. Thay vào đó, kết quả tính toán được in trực tiếp lên giấy nhiệt.
Bằng nỗ lực rất lớn trong việc tạo nên máy tính kích thước nhỏ và tiêu thụ ít điện năng, năm 1971, Sharp cho ra đời máy tính Sharp EL-8 (còn có tên gọi khác là Facit 1111) với kích thướt nhỏ gọn, chỉ nặng 155 gram, trang bị màn hình huỳnh quang chân không và sử dụng pin NiCad có thể sạc được. EL-8 được bán ra thị trường với giá 395 USD.Máy tính Sharp EL-8
Tiếp theo, vào năm 1971, Pico Electronic và General Instrument cho ra đời máy tính sử dụng IC được tích hợp chỉ một chip xử lý duy nhất mang tên Monroe Royal Digital III. Đây chính là thành công vượt bậc trong việc chế tạo các máy tính nhỏ gọn có thể bỏ túi.Máy tính nhỏ gọn Monroe Royal Digital III
Cuối cùng, chiếc máy tính có thể thật sự có thể bỏ túi đã ra đời vào năm 1971. Đó là mẫu máy tính LE-120A do công ty Busicom của Nhật sản xuất. LE-120A "HANDY" là máy tính đầu tiên được trang bị màn hình LED hiển thị kết quả. Đây cũng là máy tính cầm tay đầu tiên sử dụng 1 vi xử lý duy nhất để giải quyết các thuật toán.Máy tính bỏ túi LE-120A HANDY của Busicom
Tiếp theo thành công của LE-120A là mẫu máy tính Mostek MK-6010, máy tính đầu tiên sử dụng pin 4 pin AA có thể thay thế được. MK6010 có kích thướt 124x72x24 mm, kích thướt nhỏ gọn nhất thời bấy giờ.Máy tính đầu tiên sử dụng pin AA, Mostek MK-6010
Trong khi đó, năm 1972, Hewlett packard (HP) cho ra đời mẫu máy tính bỏ túi HP-35 với giá 395 USD. HP-35 không sử dụng phương pháp nhập liệu đầu vào thông thường, đây là mẫu máy tính điện tử bỏ túi đầu tiên sử dụng ký pháp RPN (còn gọi là ký hiệu tiền tố) để thực hiện các phép tính khoa học. Đây là phương pháp theo chuẩn tính toán của người Do Thái, nếu muốn thực hiện phép tính "8 cộng 5", theo phương pháp thường, người ta gõ các phím theo thứ tự [8], [+], [5], [=]. Nhưng theo hệ RPN, ta gõ [8], [Enter|], [5], [+] và kết quả sẽ được hiển thị.Máy tính HP-35
Năm 1973, Sinclair Cambridge, chiếc máy tính giá rẻ đầu tiên được bán ra với giá chỉ có 29,95 Bảng Anh. Tuy nhiên, do được sản xuất với giá thành rẻ nên Sinclair vấp phải vấn đề về tính chính xác của kết quả, đặc biệt là khi tính toán các hàm số siêu việt. Cũng trong thời gian này, Texas Instrument cho ra đời máy tính khoa học SR-10 được bổ sung thêm khả năng tính toán theo biến "n" và sau đó là mẫu SR-50 với khả năng tính toán hàm số logarit và lượng giác để cạnh tranh với HP-35. Cả 2 mẫu máy tính khoa học của Texas Instruments và HP đều được tiếp tục phát triển và sản xuất cho đến ngày nay.Máy tính giá rẻ đầu tiên SInclair CambridgeNăm 1978, một công ty mới là Calculated Industries nhảy vào thị trường sản xuất máy tính khoa học với các mẫu máy dành riêng cho từng lĩnh vực cụ thể. CI đã cho ra đời các mẫu máy Loan Arranger dành cho các hàm tài chính, Construction Master dùng để tính toán các thông số tiêu chuẩn chuyên ngành xây dựng.
Giai đoạn giữa những năm 1980 đến nay
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ cho phép các nhà sản xuất chế tạo máy tính khoa học giá rẻ. Các máy tính thông thường với các chức năng tính toán cơ bản chỉ có giá vào khoảng vài USD nhưng vẫn cho phép thực hiện các phép tính một cách chính xác và đáng tin cậy.Máy tính HP-28C có thể giải phương trình bậc 2
Năm 1987, máy tính HP-28C ra đời. Đây là máy tính đầu tiên sử các ký hiệu toán học để tính toán và giải phương trình bậc 2. Năm 1985, máy tính đầu tiên có khả năng vẽ đồ thị theo một hàm số cho trước là Casio FX-7000G được ra mắt.Máy tính vẽ đồ thị đầu tiên - Casio FX-7000G
Hai nhà sản xuất máy tính tiên phong là HP và TI liên tục cho ra mắt các máy tính khoa học được cải tiến, bổ sung thêm chức năng từ năm 1980 đến những năm 1990.
Bước sang thế kỷ 21, ranh giới giữa máy tính đồ họa và một máy vi tính xách tay ngày càng mong manh hơn. Các máy tính khoa học hiên đại như TI-89, Voyage 200 và HP-49G đều có thể tính toán được các hàm vi phân và tích phân, giải được các phương trình vi phân, xử lý các chuỗi ký tự và chạy phần mềm quản lý dữ liệu cá nhân. Các máy tính còn được trang bị kết nối không dây và cổng hồng ngoại để giao tiếp với máy vi tính hay các máy tính khoa học khác.
Máy tính tài chính HP-12C ra đời vào năm 1981 với nhiều nhiều chức năng hữu ích vẫn còn được tiếp tục sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay. HP-12C vẫn trung thành với phương pháp nhập liệu tiền tố RPN. Cho đến năm 2003, hàng loạt các phiên bản cải tiến của HP-12C được sản xuất. Nổi bật nhất là phiên bản "HP-12C platinum edition" được trang bị nhiều bộ nhớ hơn, tích hợp sẵn nhiều hàm tài chính và thêm vào đó là chế độ nhập dữ liệu đại số.Máy tính tài chính huyền thoại HP-12C
HP-12C là máy tính cực kỳ nổi tiếng và được người dùng trong lĩnh vực tài chính ưa chuộng do được tích hợp sẵn các hàm số tài chính hiện đại như "I", "PV", "FV" và dễ dàng tính được các chỉ số lãi, lãi ròng, giá trị của dòng tiền theo thời gian,… Tuy nhiên do vẫn sử dụng phương pháp nhập liệu theo chuẩn Do Thái nên gây sự khó khăn trong quá trình sử dụng cho những người không có kiến thức chuyên môn.
Từ những năm 1990 đến nay, các máy tính bỏ túi luôn được các nhà sản xuất hiện đại hóa và cho ra đời những mẫu sản phẩm có tính chuyên môn hóa cao hơn để phù hợp với nhiều lĩnh vực.Máy tính Casio FX-570 MS - Gắn liền với thế hệ học sinh 9X Việt Nam
Kết
Vậy là qua hơn 400 năm, từ chiếc máy đếm cơ học sơ khai của Pascal, trải qua chiếc bánh xe huyền thoại của Leibniz, cho đến chiếc máy tính CS-10A của Sharp nặng 25 kg, qua bao nỗ lực đến ELK 6521 giảm xuống còn 8 kg, rồi LE-120A "HANDY" của Busicom đã có thể bỏ túi, cuối cùng qua hàng loạt cải tiến và nâng cấp về chương trình cũng như phần cứng, chúng ta đã có chiếc máy tính bỏ túi chỉ chiếm một ngăn nhỏ trong chiếc cặp của học sinh mà trong lượng chưa đến 200 gram. Vẫn là câu nói khi viết về các phát minh, thật thán phục trước nỗ lực và khả năng sáng tạo của con người đặc biệt là các nhà phát minh: "Biến cái không thể thành có thể" để cuộc sống của con người trở nên đơn giản và dễ dàng hơn.
Cám ơn các bạn đã theo dõi bài viết, hẹn gặp lại các bạn trong chủ đề lần tới của chuyên mục "Mỗi tuần 1 phát minh" được phát hành định kỳ vào Chủ nhật hàng tuần trên tinhte.vn. Chúc các bạn có một ngày cuối tuần vui vẻ.
Đăng ký:
Bài đăng
(
Atom
)