Mới đây, trang HTCsource đã đăng tải một số hình ảnh rò rỉ cho thấy HTC M3 sẽ có phím điều hướng ảo trên màn hình thay vì phím cảm ứng điện dung trước đây. Hình ảnh còn cho thấy biểu tượng của các nút điều hướng như "quay lại", "home" hay "quản lý đa nhiệm" sẽ có thiết kế tương tự như trên HTC Sense 6 hay One X. Tuy nhiên, phím "trở lại" sẽ được thiết kế lại tương tự như trên Android gốc của Google đang được sử dụng trên các điện thoại mới nhất của LG hay Motorola (Nexus 5).
Bên cạnh đó, một số tin đồn gần đây cho rằng HTC M8 sẽ có màn hình hiển thị 5 inch. Nếu các phím điều hướng được đưa lên màn hình cảm ứng thì có thể M8 sẽ có kích thước hơi nhỏ hơn một chút so với HTC One. Do đó, có thể kích thước màn hình trên M8 sẽ nhỏ hơn con số 5 inch như dự đoán trước đây.
Mộ số ý kiến thích sử dụng phím vật lý hơn, một số ý kiến khác lại cho rằng phím điều hướng ảo sẽ giúp việc sử dụng các thiết bị có màn hình lớn được tốt hơn. Theo anh em, các phím điều hướng ảo có tiện dụng hơn so với phím cảm ứng điện dung không? Xin nhường lại phần ý kiến bên dưới cho anh em.Theo: HTCsource
Thứ Hai, 3 tháng 2, 2014
[Rò rỉ] HTC M8 sẽ có phím điều hướng ảo thay vì phím cảm ứng điện dung?
Lockie - tự chuyển ảnh nền, hiển thị lịch và thời tiết lên màn hình khóa của Windows Phone
Nếu bạn cần một ứng dụng vừa có khả năng hiển thị nhiều sự kiện lịch lên màn hình khóa (Windows Phone mặc định chỉ hiển thị một sự kiện gần nhất), vừa có hình nền đẹp tự thay đổi thì Lockie là một ứng dụng tuyệt vời. Phần mềm này hỗ trợ lấy hình nền từ nguồn riêng của nhóm lập trình viên, ngoài ra bạn có thể cho app lấy ảnh trong thư viện ảnh của điện thoại, từ Bing, hoặc chỉ chọn một màu nào đó đồng nhất. Chưa dừng lại ở đó, Lockie còn cho phép tùy biến thêm một số loại nội dung khác để hiện lên màn hình khóa như tin tức RSS, câu trích dẫn hay, ghi chú...
Cài đặt:
Từ điện thoại các bạn vào Store hay Cửa Hàng (nếu để ngôn ngữ Tiếng Việt) sau đó tìm theo từ khoá "Lockie". Ngoài ra bạn cũng có thể dùng máy quét vào mã vạch dưới đây (nhấn vào nút tìm kiếm cứng, rồi nhất vào biểu tượng con mắt và quay camera vào mã vạch).Sử dụng:Sau khi tải về và cài đặt Lockie, bạn sẽ được hỏi rằng có muốn "đặt làm màn hình khóa" hay không thì hãy chọn "Có". Bước này là bắt buộc để Lockie có quyền sử dụng và thay đổi nội dung trên màn hình khóa của điện thoại. Ở trang "Lock screen", dòng "first stack panel", bạn chọn nội dung muốn hiển thị ở dòng trên cùng của màn hình, còn ở dòng "second stack panel" là nội dung cho dòng thứ hai của lockscreen. Những nội dung bạn được phép chọn, cũng là các ô vuông nhỏ nhỏ, bao gồmKhi bạn đã thiết lập xong, bạn nhấn nút "Set" ở cạnh dưới màn hình để hoàn tất việc thiết lập tùy biến màn hình khóa của mình.
- Thời tiết
- Sự kiện lịch
- Tin tức RSS (để thiết lập nguồn tin, trượt sang trang "rss reader", nhập nguồn rss vào dòng "Fill field to get RSS", ví dụ: tinhte.vn/rss)
- Dòng trích dẫn hay
- Ghi chú
- Không có gì cả
Ghi chú:
Lockie không chỉ là về màn hình khóa bởi bạn có thể ghim ứng dụng này ra màn hình chính. Live Tile của Lockie sẽ hiển thị những thông tin hữu ích về lịch và thời tiết cho bạn xem với hiệu ứng lật vui mắt.Video hướng dẫn sử dụng
Vệ tinh đo lượng mưa trên toàn cầu GPM sẽ được phóng vào cuối tháng 2
Vào cuối tháng 2, một vệ tinh mới được thiết kế để thực hiện công tác đo đạt chi tiết theo thời gian thực về lượng mưa và tuyết rơi trên toàn cầu đồng thời bản đồ hóa các cơn bão sẽ được phóng lên quỹ đạo. Global Precipitation Measurement Core Observatory - gọi tắt GPM là vệ tinh giám sát lượng mưa trên toàn cầu được phát triển kể từ năm 2005 theo một dự án hợp tác giữa cơ quan vũ trụ Mỹ (NASA) và cơ quan vũ trụ Nhật Bản (JAXA). GPM sẽ được đưa lên quỹ đạo nhờ phương tiện phóng H-IIA do Nhật chế tạo từ sân bay vũ trụ Tanegashima thuộc đảo Tanegashima, Nhật Bản vào ngày 27 tháng 2 tới.
Được thiết kế để hoạt động phối hợp với mạng lưới vệ tinh sẵn có, GPM sẽ bay trên quỹ đạo cách Trái Đất 407 km, chếch một góc 65 độ so với đường xích đạo nhằm cung cấp các thông tin theo dõi theo thời gian thực về lượng mưa và tuyết mỗi 3 giờ tại mọi địa điểm trên Trái Đất. Khả năng khảo sát trên một khu vực rộng hơn rất nhiều so với các thiết bị khảo sát dưới mặt đất sẽ mang lại một bức tranh toàn cảnh về tình hình mưa/tuyết trên toàn cầu. Ngoài ra, GPM cũng có thể khảo sát lượng mưa tại các khu vực xa xôi hẻo lánh hoặc có độ cao lớn so với mặt nước biển.
Sứ mạng của GPM được kế thừa từ sứ mạng Tropical Rainfall Measuring Mission (TRMM) được khởi động vào năm 1997 và đây cũng là vệ tinh đầu tiên thực hiện công tác đo đạt lượng mưa tại vùng nhiệt đới vào nhiều thời điểm trong một ngày. Kể từ khi bắt đầu sứ mạng, hệ thống quan sát TRMM đã chứng minh sự cải tiến đáng kể so với các kỹ thuật trước đây khi quan sát các sự kiện thời tiết khắc nghiệt như những cơn bão nhiệt đới đe dọa đến cuộc sống của con người.
Container chứ vệ tinh GPM đang được dỡ xuống từ máy bay vận tải quân sự C-5 để chuyển đến Nhật Bản.
GPM sẽ sử dụng phương pháp thăm dò tương tự người tiền nhiệm, được xây dựng dựa trên công nghệ trước. Vệ tinh được trang bị một máy đo bức xạ sóng cực ngắn để đo lượng và cường độ của mưa và tuyết. Thêm vào đó, GPM cũng mang theo một radar băng tần kép với khả năng thăm dò bên trong một hệ thống mây và gởi về dữ liệu chi tiết của mỗi lớp mây.
Ngoài ra, GPM còn được trang bị hệ thống cảm biến tối tân cho phép phát hiện tuyết rơi và mưa nhẹ. Đây là một bước tiến quan trọng trong hoạt động quan sát mưa. Việc không có khả năng phát hiện các dạng mưa nhất định như mưa tuyết thể hiện một khuyết điểm trong các nổ lực trước đây nhằm tạo ra một hệ thống quan sát khí tượng toàn cầu thực sự. Các dạng mưa này thường xuất hiện nhiều hơn tại các vĩ độ cao.
Sứ mạng GPM có nhiều ứng dụng trên thực tế liên quan đến việc quan sát tác động của nhiều cấp độ mưa khác nhau lên môi trường. GPM sẽ là một công cụ tuyệt vời để định mức vòng tuần hoàn nước trên toàn cầu - yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến sản lượng nông nghiệp tại nhiều nơi trên thế giới. Ngoài ra, GPM cũng có thể cung cấp các cảnh báo chính xác hơn về thiên tai như lũ lụt và bão hình thành từ áp thấp nhiệt đới. Qua đó, bằng việc dự đoán đường đi của bão, người dân sẽ có thêm thời gian để sơ tán và giảm thiểu thiệt hại về người.
Hiện tại, GPM đã hoàn tất các khâu thử nghiệm và sẵn sàng rời bệ phóng. Vệ tinh sẽ bắt đầu hoạt động bình thường sau khoảng 60 ngày sau khi phóng. Dữ liệu từ vệ tinh sẽ được xử lý và cập nhật trên Internet.
Waypoint 2 Space được FAA phê chuẩn cho các chương trình huấn luyện du hành không gian thương mại
Nhà cung cấp dịch vụ huấn luyện du hành không gian Waypoint 2 đã vừa được Cơ quan hàng không liên bang Mỹ (FAA) cấp chứng nhận an toàn cho các chương trình huấn luyện thương mại sẽ được khởi động ngay trong năm nay. Hiện tại, Waypoint 2 là tổ chức duy nhất tại Mỹ cung cấp "các chương trình huấn luyện phi hành gia bài bản và toàn diện cho các chuyến bay bán quỹ đạo và quỹ đạo." Việc được FAA chứng nhận sẽ mở ra một cơ hội lớn cho mọi cá nhân - những ai mơ ước trở thành phi hành gia.
Sự phê chuẩn của FAA cho phép Waypoint 2 cung cấp dịch vụ huấn luyện cho các phi hành gia tương lai. Chương trình huấn luyện sẽ diễn ra tại trung tâm không gian Johnson của NASA và được thực hiện phối hợp với các cá nhân phát triển chương trình huấn luyện phi hành gia cho NASA và phi công Không lực Hoa Kỳ. Có 3 cấp độ huấn luyện được Waypoint 2 cung cấp bao gồm: Du hành không gian cơ bản, Huấn luyện du hành bán quỹ đạo và toàn quỹ đạo.
Chương trình du hành không gian cơ bản sẽ được mở vào tháng 4 năm nay và chi phí cho mỗi học viên là 45.000 USD. Chương trình bao gồm 12 lớp học và mất 7 ngày để hoàn tất. Các chủ đề huấn luyện bao gồm tái xâm nhập trường trọng lực, không trọng lực, hoạt động kiểm soát sứ mạng, hoạt động trong không gian và quản lý tài nguyên phi hành đoàn.
Những cá nhân tham gia chương trình huấn luyện du hành bán quỹ đạo sẽ trải qua 3 ngày trong một môi trường bán quỹ đạo không gian mô phỏng để học và trải nghiệm trạng thái không trọng lực và trường trọng lực liên quan đến hoạt động du hành không gian và tác động của chúng lên cơ thể.
Chương trình cao cấp nhất là huấn luyện du hành toàn quỹ đạo bao gồm 8 đến 12 lớp học sẽ yêu cầu học viên trải qua 10 ngày hoặc hơn trên một tàu không gian quỹ đạo mô phỏng. Chương tình được thiết kế để chuẩn bị cho các học viên khả năng thích nghi với môi trường không gian và một loạt các tính huống như việc mất phương hướng trong không gian, các thủ tục ứng phó trước tình trạng giảm áp suất đột ngột, hỏng hóc phương tiện và các tình huống ngẫu nhiên.
Kevin Heath, giám đốc điều hành Waypoint 2 Space cho biết: "Việc được FAA phê chuẩn là một cột mốc quan trọng đối với chúng tôi và đối với ngành công nghiệp hàng không vũ trụ thương mại. FAA đang rất cố gắng để đảm bảo rằng các phương tiện không gian, sân bay không gian và các chương trình đạt độ an toàn cao nhất có thể và chúng tôi tin rằng sự phê chuẩn an toàn đối với các chương trình của chúng tôi là một bước tiến mới theo định hướng của FAA."
Dưới đây là video quảng cáo về các chương trình huấn luyện của Waypoint 2 Space:
BMW sẽ ra mắt chiếc 7-Series chạy dầu đầu tiên tại Mỹ - 740Ld xDrive 2014 với giá bán từ 82.500$
BMW vừa mới xác nhận rằng họ sẽ ra mắt mẫu xe 740Ld xDrive 2014 tại triển lãm Chicago Auto Show sắp sửa diễn ra tại Mỹ trước khi nó được chính thức bán ra vào mùa xuân năm nay. Đây là chiếc 7-Series chạy dầu Diesel đầu tiên được giới thiệu tại đất nước cờ hoa trong hơn 40 năm lịch sử của dòng xe này.
BMW 740Ld xDrive 2014 phiên bản dành cho thị trường Bắc Mỹ sẽ chỉ được cung cấp những mẫu xe sử dụng trục cơ sở dài và hệ thống dẫn động 4 bánh toàn thời gian xDrive. Cung cấp sức mạnh cho chiếc xe chính là động cơ Diesel I6 3.0L tăng áp kép cho công suất tối đa 255 mã lực và mô-men xoắn cực đại 560Nm tại dải vòng tua 1.500 - 3.000 vòng/phút.
Theo thông tin công bố từ hãng xe Đức, BMW 740Ld xDrive 2014 có thể tăng tốc từ 0-100km/h trong vòng 6.1 giây, chậm hơn 0.7 giây so với phiên bản sử dụng động cơ xăng tương ứng. Mặc dù BMW vẫn chưa cung cấp bất kỳ thông tin chính thức nào về mức tiêu hao nhiên liệu của mẫu xe này nhưng theo lý thuyết thì động cơ chạy dầu sẽ tiêu hao ít hơn 25-30% lượng nhiên liệu so với động cơ xăng cùng dung tích.
BMW 740Ld xDrive 2014 sẽ có giá bán khởi điểm từ 82.500USD, chưa bao gồm 925USD chi phí vận chuyển. Giá bán nêu trên chỉ cao hơn 1.500USD so với phiên bản BMW 740Li chạy xăng. Những đối thủ chính của 740Ld xDrive là Audi A8L TDI có giá bán 78.800USD và Mercedes-Benz S350 BlueTec có giá 93.000USD.Theo AutoBlog
Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014
Độ ẩm có thể trở thành nguồn năng lượng tái tạo lớn nhất trong tự nhiên
Chúng ta đã không còn xa lạ với các nguồn năng lượng tái tạo tự nhiên như gió, mặt trời, địa nhiệt. Nhưng hôm nay, hơi nước có thể sẽ được bổ sung vào danh sách những nguồn năng lượng tái tạo lớn nhất có sẵn trong thiên nhiên. Trong một nổ lực để chứng minh tiềm năng của nguồn năng lượng mới này, tiến sĩ Ozgur Sahin cùng các cộng sự đã tạo ra một nguyên mẫu máy phát điện với các tấm cao su có thể di chuyển tương ứng với những thay đổi về độ ẩm nhờ một lớp phủ bào tử vi khuẩn.
Trong một nghiên cứu năm 2012 được xuất bản trên tạp chí Journal of the Royal Society Interface, Sahin cùng các cộng sự gồm tiến sĩ L. Mahadevan - thành viên Core Faculty thuộc viện Wyss và Adam Driks - giáo sư tiến sĩ vi trùng học và miễn dịch học tại trường y Stritch thuộc đại học Loyola, Chicago đã mô tả chi tiết cách một vi khuẩn có tên Bacillus subtilis tự khô để trở thành một dạng bào tử cứng có lớp vỏ nhăn nheo và bất động. Sau đó, những bào tử này có thể gần như ngay lập tức được phục hồi trạng thái ban đầu khi tiếp xúc với nước.
Bacillus subtilis
Các nhà nghiên cứu cho rằng các bào tử phải lưu trữ năng lượng thì mới có thể tự phục hồi trạng thái. Nhằm đo đạt mức năng lượng lưu trữ của các bào tử, Sahin đã phủ một lớp ván mỏng bằng silicon dẻo bên ngoài một dùng dịch chứa các bào tử với giả định ông sẽ có thể đo được lực định hướng theo độ ẩm qua một kính hiển vi nguyên tử. Điều khiến ông ngạc nhiên là trước khi đưa mẫu thử vào kính hiển vi, Sahin đã có thể nhìn thấy bằng mắt thường rằng lớp ván đã tự cong và duỗi thẳng tương ứng với những thay đổi về độ ẩm từ hơi thở của ông.
Sahin đã phát hiện ra rằng tấm ván dẻo được phủ bào tử có thể tạo ra lực gấp 1000 lần so với cơ bắp của con người khi độ ẩm được gia tăng từ khô hanh như những ngày trời nắng cho đến ẩm ướt trong những ngày nhiều sương mù. Con số này cũng gấp 10 lần so với các vật liệu hiện đang được sử dụng để chế tạo các bộ truyền động. Sahin cũng tính được mỗi 0,45 kg bào tử khô sẽ có thể tạo ra đủ lực để nhấc bổng một chiếc xe lên khỏi mặt đất 1 m.
Sau thử nghiệm với silicon, cao su, nhựa và băng dính, Sahin đã chọn cao su là vật liệu nhiều hứa hẹn nhất đối với một thiết bị truyền động phủ bào tử. Bằng các khối lắp ghép Lego, một chiếc quạt nhỏ, một thỏi nam châm và một khung sườn được phủ bào tử, Sahin đã tạo ra một chiếc máy phát điện phản ứng theo độ ẩm có khả năng tạo ra dòng điện qua hoạt động quay của nam châm nhờ tác động lật ra trước hoặc sau của bộ khung bào tử khi phản ứng với những thay đổi về độ ẩm.
Mặc dù nguyên mẫu trên chỉ có thể thu lại một tỉ lệ năng lượng khá nhỏ được giải phóng bởi sự bay hơi nhưng Sahin cho biết hiệu suất có thể được cải thiện bằng cách kỹ thuật hóa bào tử để nó trở nên cứng hơn và dẻo hơn tuỳ theo các trạng thái. Các nhà nghiên cứu tin rằng một ngày nào đó, công nghệ sẽ có thể được cải tiến và chúng ta sẽ có những chiếc máy phát điện hoạt động theo sự thay đổi về độ ẩm từ những vùng biển và cảng nước ấm.
"Năng lượng mặt trời và gió dao động đột ngột khi trời không nắng hay gió không thổi, và chúng ta sẽ không thể lưu trữ đủ năng lượng để cung cấp cho lưới điện trong thời gian dài. Nếu sự chênh lệch về độ ẩm có thể được khai thác để tạo ra điện vào ban đêm và ban ngày bằng một hệ thống máy phát mới, nó có thể cung cấp cho thế giới một nguồn năng lượng tái tạo mới," giám đốc kiêm nhà sáng lập viện Wyss - Don Ingber cho biết.
[Tết] Video về thực hiện âm thanh cho The Hobbit 2 với 3 đề cử Oscar 2014
Chỉ ít ngày sau khi The Hobbit: The Desolation of Smaug (Sự tàn phá của rồng Smaug) chính thức ra rạp phim trên toàn thế giới (ngày 13/12/2014), phim này đã nhận được 3 đề cử cho giải Oscar 2014, trong đó có 2 đề cử thuộc hạng mục "Phim có âm thanh xuất sắc nhất" và "Phim hòa âm xuất sắc nhất". Trong mỗi hạng mục này, The Hobbit 2 của đạo diễn Peter Jackson đều phải cạnh tranh với các đối thủ nặng kí như Captain Phillips, Gravity và Lone Survivor. Mình cũng từng xem qua phim này, trừ nội dung hơi dài dòng và nhàm chán, thì theo mình Hobbit 2 rất ấn tượng ở phần âm thanh, từ những cảnh quay trong rừng sâu, hẻm núi, các đoạn đối thoại cho đến những cảnh đánh nhau với yêu tinh, rồng lửa Smaug đều rất chân thực, nhất là khi phim còn được hậu thuẫn bởi chuẩn âm thanh Dolby Atmos. Mời các bạn xem đoạn video dài 10 phút bên dưới tóm gọn quá trình thực hiện lồng tiếng và âm thanh cho The Hobbit 2, để biết tại sao nó được tới 2 đề cử Oscar về âm thanh.
Bạn có thể xem danh sách các phim được đề cử cho giải Oscar 2014 ở đây.
[Mỗi tuần 1 phát minh] Chiếc xe gắn máy đầu tiên?
Xe gắn máy hai bánh (xe gắn máy, xe máy) đã và đang là phương tiện giao thông phổ biến ở nhiều quốc gia. Cùng với nhu cầu sử dụng, các công ty sản xuất xe gắn máy ở nhiều quốc gia đã không ngừng cạnh tranh sáng tạo, cải tiến về kiếu dáng và đặc tính kỹ thuật để khẳng định thương hiệu. Có thể nói chiếc xe gắn máy không chỉ là phương tiện giao thông mà còn là tác phẩm nghệ thuật. Người sở hữu chiếc xe gắn máy không chỉ để đi lại mà còn để thể hiện sở thích của mình.
Tại Việt Nam hiện nay, có nhiều thương hiệu, mỗi thương hiệu có nhiều dòng xe và nhiều đời xe gắn máy lưu thông trên các nẻo đường làm cho tập hợp xe gắn máy hai bánh thật đa dạng.
Hình ảnh ngay phía trên đầu tiên bài viết là hình ảnh chiếc xe đạp gắn động cơ hơi nước sử dụng nhiên liệu cồn Michaux-Perreaux của bảo tàng Ile-de-France mang đến trưng bày tại triển lãm Nghệ thuật xe máy tại Guggenheim ở New York vào năm 1998. Đó là một ứng cử viên sáng giá cho danh hiệu "chiếc xe gắn máy đầu tiên". Vậy "ngoài Michaux-Perreaux còn có những ứng cử viên nào nữa?..."
Chuyên mục "mỗi tuần 1 phát minh" tuần này sẽ đưa các bạn trở về thế kỷ thứ 19 rồi đi qua xứ sở của rượu nho đến quê hương của những chàng cao bồi cưỡi ngựa, qua đất nước của bia và xúc xích và đến quê hương của chiếc bánh pizza.... Ở đó những thắc mắc của các bạn về lịch sử của chiếc xe gắn máy đầu tiên sẽ được giải đáp.
Nửa cuối thế kỷ 19: Lịch sử xe gắn máy bắt đầu
Ý tưởng xe gắn máy dường như đã xảy ra với rất nhiều kỹ sư và nhà phát minh đặc biệt là ở Châu Âu sau sự ra đời của các phát minh: động cơ hơi nước (James Watt), động cơ điện (Michael Faraday), xe đạp, động cơ đốt trong (Etienne Lenoir),...trong khoảng cuối thế kỷ 18 và nửa đầu thế kỷ 19. Ý tưởng trên đã được thể hiện bằng việc cho ra đời những mẫu "xe đạp gắn động cơ" vào khoảng nửa cuối của thế kỷ 19, đánh dấu mốc cho lịch sử phát triển của xe gắn máy.
Năm 1868 - Tại Pháp
Chiếc xe đạp gắn động cơ hơi nước Michaux-Perreaux là xe gắn máy đầu tiên ra đời tại Pháp do Pierre Michaux và Louis-Guillaume Perreaux thực hiện. Pierre Michaux (25/6/1813 - 1883) là một thợ rèn, người cung cấp phụ tùng cho các xe thương mại Paris trong những năm 1850 và năm 1860. Louis-Guillaume Perreaux (19/2/1816 - 05/4/1889) là kỹ sư Pháp, người đã thiết kế chiếc xe đạp gắn động cơ hơi nước sử dụng nhiên liệu cồn đầu tiên tại Pháp. Chiếc xe của họ đã được cấp bằng sáng chế vào năm 1868 và năm 1869 đã được trình bày cho công chúng.
Cho tới nay vẫn còn tồn tại một số tranh cãi về tác giả của chiếc xe này do ghi nhận về tuổi của Perreaux trong bằng sáng chế. Tuy nhiên, phần lớn đều công nhận là xe gắn máy Michaux-Perreaux. Hiện tại, bản gốc duy nhất chiếc Michaux-Perreaux được lưu giữ tại bảo tàng Ile-de-France
Chiếc Michaux-Perreaux bao gồm khung bằng sắt rèn, thiết kế theo dạng khung xe đạp có sửa đổi cho yên ngồi nâng lên tạo khoảng trống để lắp động cơ hơi nước nhỏ. Bàn đạp gắn ở bánh trước xe đạp vẫn được giữ lại từ xe đạp. Bánh xe trước lớn hơn bánh sau, đều làm bằng gỗ bọc sắt rèn, nan hoa bằng sắt rèn. Động cơ được gắn trên thanh dọc của khung nghiêng một góc 45 độ, đằng sau nó là lò hơi và các thùng nhiên liệu, nước. Đó là động cơ hơi nước một xi-lanh làm bằng đồng mạ (động cơ đốt ngoài), công suất 0,5 mã lực. Chuyển động của động cơ được truyền cho bánh sau theo cơ cấu gồm bánh ròng rọc và dây cu roa. Tuy nhiên, chiếc xe đầu tiên vẫn chưa có bộ phận giảm sóc và phanh.
Khi điều khiển chiếc Michaux-Perreaux, trước tiên người ta châm lửa cho nhiên liệu cồn cháy để đun cho nước sôi và chuyển thành hơi, sau đó người điều khiển lên yên ngồi và dùng chân đạp bàn đạp cho xe chuyển động về phía trước làm tăng áp suất hơi nước ở xi lanh để động cơ hoạt động kéo xe chạy. Vận tốc tối đa của Michaux-Perreaux lúc bấy giờ đạt 15 Km/h.
Năm 1869 - Tại Mỹ
Rời xứ sở của rượu nho ta đến tiểu ban Texas Hoa Kì xem những con người yêu thích thiên nhiên - những chàng cao bồi cưỡi ngựa bắn súng trước khi đến Bảo tàng quốc gia Mỹ tìm hiểu ứng cử viên thứ hai tranh ngôi vị "chiếc xe gắn máy đầu tiên".
Xe đạp gắn máy hơi nước đầu tiên tại Pháp ra đời không lâu thì tại Mỹ, vào năm 1869, Sylvester H.Roper giới thiệu lần đầu tiên chiếc xe gắn động cơ hơi nước của mình tại Massachusetts. Sylvester Howard Roper (1823 - 1896) là một nhà phát minh sung mãn trên nhiều lĩnh vực. Hiện tại, nguyên mẫu chiếc xe gắn máy hơi nước Roper1869 được lưu giữ tại Viện Smithsonian Hoa Kì
Chiếc Roper vẫn là sự kết hợp động cơ hơi nước với xe đạp nhưng vị trí lắp động cơ được đặt giữa hai bánh như xe gắn máy hiện đại. Về kết cấu, Roper bao gồm khung xe bằng thép, thiết kế theo dạng khung xe đạp có 2 bánh bằng nhau. Khoảng cách giữa trục bánh trước và bánh sau là 49 inch. Hai bánh xe bằng gỗ bọc thép ở mặt ngoài, có đường kính 34 inch. Treo dưới yên ngồi là một nồi hơi dùng than, gắn liền với khung nhờ cặp lò xo. Ở phía bánh sau, trên mỗi bên của khung lặp một bộ piston xilanh, có ống dẫn thông với lò hơi. Ngoài ra, một ống khói ngắn của nồi hơi dựng lên từ phía sau yên xe.
Chuyển động của động cơ được truyền cho bánh sau theo cơ cấu thanh truyền-tay quay. Chỗ để chân được gắn vào hai đầu trục trước. Roper có công suất động cơ 0,5 mã lực và tốc độ đạt được 16 km/h. Roper được đánh giá là có nhiều tính năng xe máy hiện đại, bao gồm một dây cáp gắn liền với tay lái vận hành bướm ga, một dây xích từ tay lái để kéo tấm kim loại dạng cong như cái muỗng áp vào bánh trước như hệ thống phanh.
Người điều khiển chuẩn bị vận hành chiếc Roper bằng cách mở cửa hông ở phần dưới nồi hơi, châm lửa cho than trong lò cháy hồng đun sôi nước trong nồi hơi và tạo ra hơi nước để cấp năng lượng cho động cơ. Nước được cung cấp từ bồn chứa ở phần trên nồi hơi. Khi áp suất hơi nước đủ lớn, người lái thắt chặt cáp để "tăng ga" cho xe tiến về phía trước.
Những người hàng xóm của Roper đã kể lại rằng nhiều người đi bộ sợ hãi, khó chịu vì tiếng ồn và khói cay khi ông cưỡi chiếc xe mà ông sáng tạo đi ra phố. Thậm chí ông đã từng vào đồn cảnh sát vì lý do đó nhưng nhanh chóng được thả ra do bằng sáng chế đã được cấp.
video về chiếc Roper
Năm 1885 - Tại Đức
Đáp chuyến bay thẳng từ Washington đi Berlin, bây giờ mình và các bạn đang ở đất nước của bia và xúc xích nổi tiếng nhưng ta phải tạm thời "nhịn" để thực hiện nhiệm vụ chính của mình trong cuộc hành trình là tìm hiểu ứng cử viên thứ ba của danh hiệu “chiếc xe máy đầu tiên”.
Bản sao của chiếc Reitwagen đặt tại Bảo tàng Mercedes-Benz ở Stuttgart
Bản sao của chiếc Reitwagen của bảo tàng Honda Motegi, Nhật Bản
Ứng cử viên cho danh hiệu "chiếc xe máy đầu tiên" của thế giới ở đây có tên gọi là Reitwagen do người Đức có tên Gottlieb Daimler (1834 - 1900) thực hiện vào năm 1885. Bằng sáng chế số DRP 36.423 được trao cho Gottlieb vào ngày 11 tháng 8 năm 1886 tại Đức. Nguyên mẫu chiếc Reitwagen đã bị mất trong một vụ cháy lớn năm 1903 tại nhà máy DMG của Daimler tại Cannstatt nên các chiếc Reitwagen được trưng bày ở một số bảo tàng là bản sao chính xác theo đúng bản vẽ và hồ sơ của nó.
Daimler đã xây dựng chiếc Reitwagen như thế nào? Từ niềm đam mê kỹ thuật cơ khí chế tạo, Gottlieb Daimler đã thể hiện đam mê về kỹ thuật cơ khí khi còn học trung học. Năm 1852, Gottlieb Daimler không theo nghề làm bánh của cha mình mà quyết định chọn kỹ thuật cơ khí và rời quê hương bắt đầu công việc kỹ thuật cơ khí tại Graffenstaden. Năm 1857-1859, ông trở lại học ngành cơ khí tại Đại học Bách khoa Stuttgart. Sau đó, để mở rộng sự hiểu biết về kỹ thuật, ông đến một số nước châu Âu làm việc trên động cơ đốt trong của JJ Lenoir, đầu máy xe lửa, ...
Năm 1863, Daimler kết bạn với Wilhelm Maybach, một nhà thiết kế công nghiệp mới 19 tuổi và sau này trở thành đối tác lâu dài của ông. Năm 1872, Daimler và Maybach đến làm việc cho công ty của Nikolaus Otto. Trong công ty, Daimler và Maybach tham gia vào đội ngũ kỹ thuật cùng với Otto tập trung xây dựng động cơ xăng bốn thì. Năm 1877, Otto được cấp bằng sáng chế động cơ đốt trong bốn thì. Năm 1882, Daimler và Maybach rời khỏi công ty Otto với cùng ý tưởng hình thành trước đó, họ thành lập một nhà máy sản xuất để cùng nghiên cứu phát triển động cơ nhỏ tốc độ cao để có thể lắp trên một loạt các phương tiện trên mặt đất, trên sông và trên không.
Bí mật, miệt mài giải quyết khó khăn. Daimler và Maybach biết rõ hạn chế động cơ Otto hiện có là hệ thống đánh lửa và cung cấp nhiên liệu - Đây chính là khó khăn mà hai ông phải giải quyết. Maybach tìm thấy nguồn cảm hứng trong một bản vẽ bởi các kỹ sư Watson Anh. Sau nhiều thử nghiệm, Maybach đã đưa ra được hệ thống đánh lửa "ống lửa nóng" đảm bảo đánh lửa ổn định và có thể tăng tốc động cơ như mong muốn.
Hệ thống trên có cấu tạo và hoạt động theo nguyên tắc: một ống làm nóng từ bên ngoài, hướng vào xi-lanh ở khoảng vị trí của bugi sau này. Khi nén bằng piston trong xi lanh, hỗn hợp nhiên liệu chống lại các ống nóng và được đốt cháy một cách tự nhiên. Trong quá trìn nghiên cứu chế tạo, các hoạt động sáng tạo được hai ông giữ bí mật tuyệt đối.
Bên trong nhà xưởng nơi Daimler và Maybach đã làm việc ngày đêm trong vòng bí mật
Động cơ xăng 4 thì nằm ngang với ống lửa nóng
Cuộc đua nhận bằng sáng chế
Mặc dù biết bằng sáng chế động cơ xăng 4 thì Otto DRP 532 vẫn còn giá trị, nhưng với sự khác biệt về kích thước động cơ, hệ thống đánh lửa được xây dựng và đặc biệt là với nghệ thuật ngôn từ của G.Daimler thì bằng sáng chế cho động cơ xăng 4 thì nằm ngang với ống lửa nóng đã được cấp ngày 23 tháng 12 năm 1883. Đoán trước sẽ phải chạy đua bằng sáng chế với Otto, Karl Benz và các nhà sáng chế khác, nên chỉ một tuần sau khi bằng sáng chế cho các "động cơ xăng 4 thì nằm ngang với ống lửa nóng" được cấp, G.Daimler tiếp tục nộp bằng sáng chế khác cho một hệ thống "kiểm soát tốc độ của động cơ bằng cách kiểm soát các van xả" để bảo vệ phát minh của mình.
Phiên bản cải tiến của động cơ sau đó là động cơ bốn thì một xi lanh thẳng đứng, được đặt tên là "đồng hồ quả lắc" (vì nó trông giống đồng hồ quả lắc) và được cấp bằng sáng chế vào tháng 4 năm 1885. Trong "đồng hồ quả lắc", cơ chế tay quay và bánh đà lần đầu tiên được bọc trong một cacte chống dầu và bụi, trên đó có xi-lanh làm mát bằng khí. Nó được thiết kế nhỏ gọn phù hợp để lắp đặt trong nhiều loại thiết bị: khối lượng 60 kg, dung tích xi lanh 264cc, công suất 0,5 mã lực (0,37 kW) tại 650 vòng/phút (650rpm). Đây được coi là tiền thân của các động cơ xăng hiện đại.
Chiếc Reitwagen ra đời
Ảnh nguyên mẫu chiếc Reitwagen
Daimler và Maybach lắp đặt "Đồng hồ quả lắc" trong một chiếc xe đạp bằng gỗ tạo ra chiếc xe gắn máy đầu tiên và đặt tên cho nó là Reitwagen hay Einspur. Năm 1885, Daimler nộp bằng sáng chế và 1 năm sau đó, ông được trao bằng sáng chế cho chiếc xe Reitwagen của mình.
Chiếc Reitwagen có cấu tạo bao gồm khung bằng gỗ, bánh xe bằng gỗ lót thép ở mặt ngoài, tay cầm và yên xe. Hai bánh xe nhỏ hoạt động như chân chống tương tự như 2 bánh phụ trên chiếc xe đạp của trẻ em mới bắt đầu tập đi xe. Tay cầm hình chữ T ngã về phía sau được chế tạo bằng thép. Yên ngồi là một tấm kim loại uốn cong chữ U, bọc da và được đặt trực tiếp trên động cơ. Reitwagen nặng 90 kg, dung tích xi lanh 264cc sử dụng nhiên liệu là xăng hoặc dầu hỏa.Hệ thống truyền động ra bánh sau theo cơ cấu bánh ròng rọc và dây curoa. Reitwagen có thể đạt được vận tốc tối đa tới 12 km/h.
Reitwagen phải được khởi động trước khi cưỡi lên và vận hành. Để khởi động động cơ, đầu tiên phải thắp sáng ngọn lửa nhỏ bên dưới ống lửa nóng và sử dụng tay quay quay động cơ vài vòng. Mất khoảng một phút sau khi khởi động cho động cơ chạy tốt, người điều khiển lên yên ngồi và tác động vào cần điều khiển hệ thống truyền động cho xe chạy.
Do chưa có bộ ly hợp nên để thay đổi tốc độ, người điều khiển tác động vào bánh đỡ dây đai để chọn bánh ròng rọc cho dây đai (tương tự như cơ cấu chuyển dĩa và líp ở xe đạp ngày nay). Hai tốc độ có thể lựa chọn là 6 hoặc 12 km/h tùy thuộc vào ròng rọc mà đai lựa chọn.
Khoảnh khắc lịch sử - thử nghiệm đầu tiên. Con trai của Daimler Paul, 17 tuổi, trở thành người lái xe gắn máy đầu tiên vào ngày 10 tháng 11 năm 1885, khi anh cưỡi chiếc Reitwagen từ Cannstatt đến Untertürkheim và trở lại (khoảng 10km) với tốc độ đạt 12 km/h. Với điều kiện đường giao thông vào thời điểm bấy giờ, Reitwagen hầu như không có được một cuộc hành trình thoải mái. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất nhất gặp phải là sức nóng của ngọn lửa động cơ dưới yên ngồi.
Xem đoạn video về chiếc Reitwagen
Tai nạn xe máy đầu tiên
Chiếc xe của Sylvester H.Roper - Mỹ năm 1894.
Vẫn là động cơ hơi nước sau hơn 25 năm cải tiến và phát triển kể từ khi chiếc Roper 1869 ra đời. Chiếc Roper 1894 đã tham gia trong vụ tai nạn xe máy lần đầu tiên với chính người phát minh ra nó.
Các nhận định của giới phân tích - các tranh luận dần được tháo gỡ
Sử dụng một định nghĩa rộng rãi cho một xe máy, có hai xe hai bánh gắn động cơ hơi nước đầu tiên, một xây dựng ở Pháp bởi Louis-Guillame Perreaux và Pierre Michaux vào năm 1868, một xây dựng tại Hoa Kỳ bởi Sylvester Roper ngay sau đó, mà ông đã chứng minh tại hội chợ, rạp xiếc tại nhiều nơi khác nhau. Với một định nghĩa đủ cho một chiếc xe máy là hai bánh xe và động cơ đốt trong thì chiếc Reitwagen được xây dựng ở Đức bởi Gottlieb Daimler và Wilhelm Maybach vào năm 1885 là xe gắn máy đầu tiên trên thế giới, sự xuất hiện của nó là một khởi đầu cho lịch sử phát triển hơn một trăm năm.
Một cuộc tranh luận về việc xác định xe máy đầu tiên được phát minh đã xảy ra, một số cho rằng hai bánh xe và một động cơ hơi nước phải được xét, tuy không được phát triển nhưng sự ra đời của nó khơi màu cho những sáng tạo về sau, những người khác nhấn mạnh rằng một động cơ đốt trong là một thành phần quan trọng. Hầu hết các chuyên gia đồng ý rằng “Reitwagen chế tạo tại Đức vào năm 1885 là xe máy đầu tiên trên thế giới”.
Tuy nhiên Reitwagen chỉ là kết quả thử nghiệm trong dự án phát triển động cơ đốt trong 4 thì của Daimler và Maybach nên chưa được sản xuất thương mại. Xe gắn máy được sản xuất hàng loạt đầu tiên là Hildebrand & Wolfmüller "Motorrad" (hay H&W Motorrad) do hai anh em Henry và Wilhelm Hildebrand hợp tác với Alois Wolfmüller và Hans Geisenhof chế tạo và được cấp bằng sáng chế vào tháng 1 năm 1894 tại Đức. Xe lắp động cơ 4 kỳ dùng xăng, 2 xi lanh song song dung tích 1489cc, công suất 2,5 mã lực tại 240 vòng/phút, làm mát bằng nước. Tốc độ khoảng 45 km/h. Đây cũng là lần đầu tiên cụm từ "xe máy" (theo tiếng Đức là "Motorrad") được sử dụng. Họ tổ chức sản xuất tại Munich và cũng nhượng quyền sản xuất xe này tại Pháp với tên gọi là "The Pétrolette".
Bản sao chiếc Hildebrand & Wolfmüller
Video chiếc xe của Hildebrand & Wolfmüller
Nguồn: Tổng hợp
Phương pháp mới điều trị chứng dị ứng với đậu phộng ở trẻ em
Tiến sĩ Pamela Ewan tại đại học Cambridge vừa công bố nghiên cứu về phương pháp điều trị mới cho trẻ em mắc chứng dị ứng với đậu phộng. Sau quá trình điều trị thử nghiệm, trẻ em có thể ăn được lượng đậu phộng nhiều hơn mà không có biểu hiện dị ứng. Nghiên cứu trên mở ra hy vọng mới giúp cải thiện cuộc sống cho nhiều trẻ em mắc bệnh và không còn khó khăn khi chọn thực phẩm.
Nhiều trẻ em bị mắc chứng dị ứng với đậu phộng đã được thử nghiệm thành công. Sau liệu pháp điều trị, những đứa trẻ được cho ăn một lượng đậu phộng tăng dần tới mức bình thường nhưng vẫn không bộc phát dị ứng. Sau quá trình điều trị kéo dài 6 tháng liên tục, hơn 80% những đứa trẻ tham gia thử nghiệm đã có thể ăn được trung bình 5 hạt đậu phộng mỗi ngày, gấp 25 số lượng protein đậu phộng so với ngưỡng dị ứng trước đó.
Phương pháp của tiến sĩ Pamela Ewan được gọi là "liệu pháp miễn dịch" đang được áp dụng thành công để điều trị chứng dị ứng với phấn hoa và nọc độc của ong bắp cày. Nghiên cứu được thực hiện trên 99 trẻ em có độ tuổi từ 7 đến 16 và có các mức độ khác nhau của chứng dị ứng với đậu phộng. Trong suốt 26 tuần, một nửa những đứa trẻ được cho tăng dần lượng protein trong đậu phộng lên đến 800 mg mỗi ngày. Nửa còn lại dùng mọi biện pháp để tránh xa đậu phộng mà không trải qua điều trị.
Có khoảng 20% những đứa trẻ phải chịu những tác dụng phụ chủ yếu là ho nhẹ và ngứa họng. Sau 6 tháng điều trị, hơn 62% đứa trẻ đã có thể ăn được 10 hạt đậu phộng mỗi ngày mà không có triệu chứng dị ứng. Trong khi đó, những đứa trẻ không trải qua điều trị không thể chịu đựng được bất cứ một lượng protein đậu phộng nào. Tiến sĩ Clark cho biết: "Những đứa trẻ có thể tăng liều dùng đậu phộng chứng tỏ hệ thống miễn dịch của cơ thể đã bắt đầu thay đổi. Sức chịu đựng đối với đậu phộng đã trở nên mạnh mẽ hơn."
Chuyên gia nghiên cứu dị ứng ở trẻ em tại Bệnh viện đại học Cambridge, Tiến sĩ Andrew Clark cho biết: "Chúng tôi nhận thấy nhóm bệnh nhân được điều đã có những cải tiến đáng kể về chất lượng cuộc sống." Tiến sĩ Clark cho biết những người tham gia thử nghiệm điều trị đã không cần phải nghiên cứu kỹ nhãn mác của thực phẩm hoặc hỏi về thanh phần những món ăn trong nhà hàng nữa.
Tiến sĩ Matthew Greenhawt, trung tâm dị ứng thực phẩm, đại học Michigan cho biết: "Đây là một nghiên cứu đột phá và đã nhận được những kết quả đáng hy vọng. Nghiên cứu trên đã có nhiều người tham gia hơn các nghiên cứu trước đây và cũng cho thấy ít tác dụng phụ đối với trẻ em hơn. Tuy nhiên, đây vẫn còn là giai đoạn đầu của một phương pháp điều trị trước khi áp dụng lâm sàng. Nghiên cứu phải được trải qua các thẩm định và xác nhận trong thời gian dài hơn để có thể hiểu được tác động sinh lý đối với cơ thể người."
Từ 0,5 đến 1,4% trẻ em tại các nước có thu nhập cao chịu ảnh hưởng bởi chứng dị ứng với đậu phộng. Đây là nguyên nhân gây ra triệu chứng sốc dị ứng nặng và tử vọng có liên quan đến thực phẩm. Cho đến nay, cách duy nhất để giải quyết vấn đề là không ăn những thức ăn có thành phần đậu phộng.Theo: WSJ
Xếp hạng các thiết bị đã được đánh giá pin trong năm 2013
Đánh giá thời lượng pin là một bài kiểm tra mới được Tinh tế thử nghiệm trong năm 2013, dù có bắt đầu hơi trễ những cũng đủ để đánh giá những thiết bị đỉnh cao ra mắt vào dịp cuối năm. Giờ thì 2014 chuẩn bị bắt đầu với những đối thủ mới, đã đến lúc nhìn lại xem chúng ta có gì. Có hơn 10 thiết bị đã được đem ra kiểm tra, có một yếu tố được tập trung để so sánh các thiết bị với nhau đó là "Tổng thời gian xem film liên tục", bài kiểm tra này sẽ đánh giá được mức độ tiêu thụ pin của từng thiết bị. Với các bài thử lướt web hay chơi games thì sẽ giúp cho các bạn hình dung được mức độ tiêu thụ pin trong từng trường hợp, từ đó suy ra được nếu với nhu cầu sử dụng bản thân thì thiết bị đó sẽ đáp ứng được bao lâu.
Dưới đây là tổng kết 11 thiết bị đã được thực hiện đánh giá pin trong thời gian vừa qua, trong đó có 3 chiếc máy tính bảng và 8 điện thoại. Nếu tính tổng thời gian xem film thì iPad Air là chiếc máy có thời lượng pin lâu nhất với kết quả: 11 tiếng 57 phút liên tục, về phần điện thoại thì Note 3 đầu bảng với 11 tiếng 08 phút liên tục.
Với Windows Phone thì chỉ có 1 thiết bị góp mặt trong bảng so sánh, các bài kiểm tra thực hiện với Android mà áp dụng lên WP thì trải nghiệm khá là tệ, máy nóng và hao pin hơn bình thường khá nhiều.
iPad Air/Mini retina và Note 3 tiếp tục là chiếc máy tính bảng và chiếc điện thoại dẫn đầu ở hạng mục lướt web thông qua wifi. Chi tiết bạn có thể tham khảo ở bảng dưới đây.
Tiêu chí pin cũng chỉ là một trong những tiêu chí để chọn lựa thiết bị, chúc các bạn vui với lựa chọn của mình. Nếu vẫn chưa mua máy thì chúc mừng bạn, tháng 1 sẽ là thời điểm mà hàng loạt những siêu phẩm mới được ra mắt, cùng chờ xem nhé.Năm mới, thêm nhiều thứ mới ....
- Để xem lại các bài đánh giá pin thì bạn truy cập theo tags: Test pin.
Tuy nhiên, có vẻ như chỉ có 1 bài kiểm tra tổng ("Tổng thời gian xem film liên tục") để đem ra so sánh các thiết bị với nhau thì hơi thiếu, chính vì thế từ nay về sau Tinh tế sẽ bổ sung thêm một bài đánh giá nữa: Bài đánh giá mức độ tiêu thụ pin tổng thể. Chi tiết đã được bổ sung vào bài viết: "Quy trình đánh giá thời gian sử dụng pin của một thiết bị", mời các bạn tham khảo. Dưới đây mình sẽ trích dẫn lại:LG G Pad đã là chiếc máy đầu tiên được thực hiện theo cách mới này.
- Thực hiện lần lượt các bài test (1-4), sau mỗi bài nghỉ 10 phút rồi thực hiện tiếp. Cho đến khi máy hết pin. (Bài 1 - nghỉ 10p - Bài 2 - nghỉ 10p - Bài 3 - nghỉ 10p - Bài 4 - ...)
Bạn có thể tham khảo thêm tại đây.
Facebook đang thử nghiệm tính năng tìm kiếm thông minh Graph Search cho ứng dụng di động của mình
Trong cuộc họp cổ đông mới diễn ra gần đây, CEO Mark Zuckerberg của Facebook đã gợi ý rằng tính năng tìm kiếm thông minh Graph Search sẽ được hãng mang lên thiết bị di động. Tính năng này đã ra mắt được một thời gian nhưng chỉ có thể sử dụng từ Facebook nền web mà thôi. "Rất sớm", Zuckerberg nói, "Tôi nghĩ các bạn nên kì vọng chúng tôi sẽ sớm triển khai phiên bản di động của nó". Hiện Facebook đã tiến hành thử nghiệm Graph Search trên một nhóm nhỏ người dùng ứng dụng của hãng trên mobile nhưng vẫn chưa rõ khi nào thì hãng sẽ chính thức cung cấp nó cho mọi thành viên trên mạng xã hội của mình.
Phóng viên Seth Fiegerman đến từ trang Mashable, một trong số những tester được Facebook cập nhật Graph Search trên thiết bị di động, cho biết rằng anh đã thấy tính năng mới này từ ngày 2/2. Theo mô tả trong ảnh chụp màn hình thì chúng ta có thể thực hiện việc tìm bạn bè bằng cách gõ những câu đơn giản, ví dụ như "Tìm những bạn học cùng trường với tôi hiện đang ở Thành Phố Hồ Chí Minh" hoặc "Tìm những bạn sinh năm 1990 cùng thích phim Now you see me" (tất nhiên là phải ghi bằng tiếng Anh). Đây cũng là những gì người dùng có thể làm được trên Graph Search nền web. Chúng ta hãy chờ thêm thông tin chính thức từ Facebook xem sao.
Đăng ký:
Bài đăng
(
Atom
)