Hiển thị các bài đăng có nhãn internet. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn internet. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 2 tháng 7, 2013

Internet of Things là gì và nó có ảnh hưởng như thế nào trong cuộc sống của chúng ta?

InternetofThings

Trong thời gian gần đây chúng ta rất hay thấy một cụm từ là lạ xuất hiện trên mạng, đó là "Internet of Things". Đây là một khái niệm còn khá mới mẻ với hầu hết người dùng thông thường mặc dù nó đã được ra đời cách đây khá lâu. Nói ngắn gọi, nó là một tập hợp các thiết bị có khả năng kết nối với nhau, với Internet và với thế giới bên ngoài để thực hiện một công việc nào đó. Vậy Internet of Things chính xác là gì và nó có ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống của chúng ta?

1. Internet of Things (IoT) là gì?

IoT là thuật ngữ dùng để chỉ các đối tượng có thể được nhận biết (identifiable) cũng như chỉ sự tồn tại của chúng trong một kiến trúc mang tính kết nối. Cụm từ này được đưa ra bởi Kevin Ashton vào năm 1999. Ông là một nhà khoa học đã sáng lập ra Trung tâm Auto-ID ở đại học MIT, nơi thiết lập các quy chuẩn toàn cầu cho RFID (một phương thức giao tiếp không dây dùng sóng radio) cũng như một số loại cảm biến khác. IoT sau đó cũng được dùng nhiều trong các ấn phẩm đến từ các hãng và nhà phân tích.

Vào tháng 6 năm 2009, Ashton từng cho biết rằng "hiện nay máy tính - và do đó, Internet - gần như phụ thuộc hoàn toàn vào con người để chuyển tải dữ liệu. Gần như tất cả trong số 50 petabyte dữ liệu đang có trên Internet (vào thời điểm đó) đều được ghi lại hoặc tạo ra bởi con người chúng ta, thông qua các các thức như gõ chữ, nhấn nút, chụp ảnh, quét mã vách...". Con người chính là nhân tố quyết định trong thế giới Internet hiện nay. Thế nhưng con người lại có nhiều nhược điểm: chúng ta chỉ có thời gian hạn chế, khả năng tập trung và độ chính xác cũng ở mức thấp so với máy móc. Điều đó có nghĩa là chúng ta không giỏi trong việc thu thập thông tin về thế giới xung quanh, và đây là một vấn đề lớn.

Ví dụ đơn giản như sau: chiếc tủ lạnh thông thường của bạn không được kết nối với thiết bị nào khác. Nếu chúng ta muốn ghi lại nhiệt độ ở từng thời điểm của tủ, chúng ta chỉ có cách ghi lại thủ công rồi nhập vào một máy tính hay thiết bị lưu trữ nào đó. Hay như bóng đèn neon ở nhà chẳng hạn, chúng ta muốn thu thập, điều chỉnh độ sáng của nó thì phải đo thủ công rồi ghi lại.

Còn nếu như máy tính có khả năng giúp con người thu thập tất cả những dữ liệu về mọi thứ xung quanh, chúng ta có thể "theo dõi và đếm mọi thứ, giúp giảm hao phí, chi phí và lỗ. Chúng ta sẽ biết chính xác khi nào các vật dụng cần phải sửa chữa, thay thế, khi nào chúng còn mới và khi nào thì chúng hết hạn sử dụng. Chưa kể đến việc chúng ta có thể kiểm soát chúng mọi lúc mọi nơi. IoT có tiềm năng thay đổi thế giới, giống như cách mà Internet đã thay đổi cuộc sống của chúng ta. Ngôi nhà thông minh với các bóng đèn thông minh, máy giặt thông minh, tủ lạnh thông minh,... có thể xem là bước đầu của IoT bởi chúng đều được liên kết với nhau và/hoặc liên kết vào Internet.

ht_Nest_iPhone_jp_121001_wg
Nest, một bộ điều khiển nhiệt dùng trong nhà, có thể xem như một ví dụ cơ bản của thiết bị IoT

Một chi nhánh của Auto-ID tại Châu Âu từng nói về IoT như sau: "Chúng tôi có một tầm nhìn rất rõ ràng - tạo ra một thế giới nơi mà mọi thứ - từ những chiếc máy bay phản lực khổng lồ cho đến từng cây kim khâu - đều được kết nối vào Internet. Mục tiêu này chỉ có thể đạt được khi và chỉ khi tất cả mọi người áp dụng nó ở tất cả mọi nơi". Việc trang bị những công nghệ theo dõi, nhận biết vào những vật thông dụng trong đời sống sẽ làm thay đổi rất nhiều cách chúng ta tương tác với đồ vật cũng như cách tương tác giữa người với người. Theo ước tính của công ty ABI Research, đến năm 2020, toàn thế giới sẽ có 30 tỉ thiết bị được kết nối không dây vào mạng lưới IoT.

2. Khả năng định danh độc nhất

Điểm quan trọng của IoT đó là các đối tượng phải có thể được nhận biết và định dạng (identifiable). Nếu mọi đội tượng, kể cả con người, được "đánh dấu" để phân biệt bản thân đối tượng đó với những thứ xung quanh thì chúng ta có thể hoàn toàn quản lí được nó thông qua máy tính. Việc đánh dấu (tagging) có thể được thực hiện thông qua nhiều công nghệ, chẳng hạn như RFID, NFC, mã vạch, mã QR, watermark kĩ thuật số... Việc kết nối thì có thể thực hiện qua Wi-Fi, mạng viễn thông băng rộng (3G, 4G), Bluetooth, ZigBee, hồng ngoại...

Ngoài những kĩ thuật nói trên, nếu nhìn từ thế giới web, chúng ta có thể sử dụng các địa chỉ độc nhất để xác định từng vật, chẳng hạn như địa chỉ IP. Mỗi thiết bị sẽ có một IP riêng biệt không nhầm lẫn. Sự xuất hiện của IPv6 với không gian địa chỉ cực kì rộng lớn sẽ giúp mọi thứ có thể dễ dàng kết nối vào Internet cũng như kết nối với nhau.

3. Xu hướng và tính chất của The Internet of Things

Thông minh

Sự thông minh và tự động trong điều khiển thực chất không phải là một phần trong ý tưởng về IoT. Các máy móc có thể dễ dàng nhận biết và phản hồi lại môi trường xung quanh (ambient intelligence), chúng cũng có thể tự điều khiển bản thân (autonomous control) mà không cần đến kết nối mạng. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây người ta bắt đầu nghiên cứu kết hợp hai khái niệm IoT và autonomous control lại với nhau. Tương lai của IoT có thể là một mạng lưới các thực thể thông minh có khả năng tự tổ chức và hoạt động riêng lẻ tùy theo tình huống, môi trường, đồng thời chúng cũng có thể liên lạc với nhau để trao đổi thông tin, dữ liệu.

Việc tích hợp trí thông minh vào IoT còn có thể giúp các thiết bị, máy móc, phần mềm thu thập và phân tích các dấu vết điện tử của con người khi chúng ta tương tác với những thứ thông minh, từ đó phát hiện ra các tri thức mới liên quan tới cuộc sống, môi trường, các mối tương tác xã hội cũng như hành vi con người.

Kiến trúc dựa trên sự kiện

Các thực thể, máy móc trong IoT sẽ phản hồi dựa theo các sự kiện diễn ra trong lúc chúng hoạt động theo thời gian thực. Một số nhà nghiên cứu từng nói rằng một mạng lưới các sensor chính là một thành phần đơn giản của IoT.

Là một hệ thống phức tạp

Trong một thế giới mở, IoT sẽ mang tính chất phức tạp bởi nó bao gồm một lượng lớn các đường liên kết giữa những thiết bị, máy móc, dịch vụ với nhau, ngoài ra còn bởi khả năng thêm vào các nhân tốc mới.

Kích thước

Một mạng lưới IoT có thể chứa đến 50 đến 100 nghìn tỉ đối tượng được kết nối và mạng lưới này có thể theo dõi sự di chuyển của từng đối tượng. Một con người sống trong thành thị có thể bị bao bọc xung quanh bởi 1000 đến 5000 đối tượng có khả năng theo dõi.

Vấn đề không gian, thời gian

Trong IoT, vị trí địa lý chính xác của một vật nào đó là rất quan trọng. Hiện nay, Internet chủ yếu được sử dụng để quản lí thông tin được xử lý bởi con người. Do đó những thông tin như địa điểm, thời gian, không gian của đối tượng không mấy quan trọng bởi người xử lí thông tin có thể quyết định các thông tin này có cần thiết hay không, và nếu cần thì họ có thể bổ sung thêm. Trong khi đó, IoT về lý thuyết sẽ thu thập rất nhiều dữ liệu, trong đó có thể có dữ liệu thừa về địa điểm, và việc xử lí dữ liệu đó được xem như không hiệu quả. Ngoài ra, việc xử lí một khối lượng lớn dữ liệu trong thời gian ngắn đủ để đáp ứng cho hoạt động của các đối tượng cũng là một thác thức hiện nay.

3. Các hệ thống phụ trong IoT

Không phải tất cả mọi thứ nằm trong IoT đều nhất thiết phải kết nối vào một mạng lưới toàn cầu, chúng ta có thể hoạt động trong từng hệ thống đơn lẻ (subsystem). Hãy tưởng tượng đến một căn nhà thông minh, trong đó các đồ điện gia dụng có thể tự chúng tương tác với nhau và hoạt động mà không cần phải vào Internet, trừ khi chúng ta cần điều khiển nó từ xa. Ngôi nhà này có thể được xem là một subsystem. Cũng giống như hiện nay chúng ta có các mạng LAN, WAN, mạng ngang hàng nội bộ chứ không kết nối trực tiếp vào Internet.

4. Ứng dụng của IoT


lights_remote_collage
Đèn điều khiển từ xa của hãng Greenwaves

IoT có ứng dụng rộng vô cùng, có thể kể ra một số thư như sau:
  • Quản lí chất thải
  • Quản lí và lập kế hoạch quản lí đô thị
  • Quản lí môi trường
  • Phản hồi trong các tinh huống khẩn cấp
  • Mua sắm thông minh
  • Quản lí các thiết bị cá nhân
  • Đồng hồ đo thông minh
  • Tự động hóa ngôi nhà
Một trong những vấn đề với IoT đó là khả năng tạo ra một ứng dụng IoT nhanh chóng. Để khắc phục, hiện nay nhiều hãng, công ty, tổ chức trên thế giới đang nghiên cứu các nền tảng giúp xây dựng nhanh ứng dụng dành cho IoT. Đại học British Columbia ở Canada hiện đang tập trung vào một bộ toolkit cho phép phát triển phần mềm IoT chỉ bằng các công nghệ/tiêu chuẩn Web cũng như giao thức phổ biến. Công ty như ioBridge thì cung cấp giải pháp kết nối và điều khiển hầu như bất kì thiết bị nào có khả năng kết nối Internet, kể cả đèn bàn, quạt máy...

Broadcom mới đây cũng đã giới thiệu hai con chip có mức tiêu thụ điện thấp và giá rẻ dành cho các thiết bị "Internet of things". SoC đầu tiên, BCM4390, được tích hợp một bộ thu phát sóng Wi-Fi 802.11 b/g/n hiệu suất cao để có thể dùng với các vi điều khiển 8 hoặc 16-bit. Broadcom nói rằng sản phẩm này có thể dùng trong các nồi nấu ăn thông minh, bóng đèn, hệ thống an ninh cũng như các thiết bị gia dụng có khả năng điều khiển và quản lí từ xa. SoC thứ hai, BCM20732, thì được tích hợp bộ thu phát tín hiệu Bluetooth và nhắm đến những máy móc như bộ đo nhịp tim, bộ đo bước chạy, thiết bị cảnh báo khi có vật gì đến gần hoặc ổ khóa cửa thông minh. Broadcom cũng đã đóng góp các tập lệnh phần mềm hỗ trợ cho cả công nghệ Bluetooth thường và Bluetooth Smart vào dự án Android Open Source (AOSP). Hiện bản mẫu của hai con chip này đang được giao đến đối tác phần cứng và dự kiến sẽ được sản xuất đại trà trong quý 4 năm nay.

Camb-Cons-connected-bike
Đến xe đạp cũng có thể trở thành một thiết bị IoT

5. Những tác nhân ngăn cản sự phát triển của Internet of Things

Chưa có một ngôn ngữ chung

Ở mức cơ bản nhất, Internet là một mạng dùng để nối thiết bị này với thiết bị khác. Nếu chỉ riêng có kết nối không thôi thì không có gì đảm bảo rằng các thiết bị biết cách nói chuyện nói nhau. Ví dụ, bạn có thể đi từ Việt Nam đến Mỹ, nhưng không đảm bảo rằng bạn có thể nói chuyện tới với người Mỹ.

Để các thiết bị có thể giao tiếp với nhau, chúng sẽ cần một hoặc nhiều giao thức (protocols), có thể xem là một thứ ngôn ngữ chuyên biệt để giải quyết một tác vụ nào đó. Chắc chắn bạn đã ít nhiều sử dụng một trong những giao thức phổ biến nhất thế giới, đó là HyperText Transfer Protocol (HTTP) để tải web. Ngoài ra chúng ta còn có SMTP, POP, IMAP dành cho email, FTP dùng để trao đổi file, vâng vâng và vâng vâng.

Những giao thức như thế này hoạt động ổn bởi các máy chủ web, mail và FTP thường không phải nói với nhau nhiều, khi cần, một phần mềm phiên dịch đơn giản sẽ đứng ra làm trung gian để hai bên hiểu nhau. Còn với các thiết bị IoT, chúng phải đảm đương rất nhiều thứ, phải nói chuyện với nhiều loại máy móc thiết bị khác nhau. Đáng tiếc rằng hiện người ta chưa có nhiều sự đồng thuận về các giao thức để IoT trao đổi dữ liệu. Nói cách khác, tình huống này gọi là "giao tiếp thất bại", một bên nói nhưng bên kia không thèm (và không thể) nghe.

Hàng rào subnetwork

Như đã nói ở trên, thay vì giao tiếp trực tiếp với nhau, các thiết bị IoT hiện nay chủ yếu kết nối đến một máy chủ trung tâm do hãng sản xuất một nhà phát triển nào đó quản lí. Cách này cũng vẫn ổn thôi, những thiết bị vẫn hoàn toàn nói được với nhau thông qua chức năng phiên dịch của máy chủ rồi. Thế nhưng mọi chuyện không đơn giản như thế, cứ mỗi một mạng lưới như thế tạo thành một subnetwork riêng, và buồn thay các máy móc nằm trong subnetwork này không thể giao tiếp tốt với subnetwork khác.

Lấy ví dụ như xe ô tô chẳng hạn. Một chiếc Ford Focus có thể giao tiếp cực kì tốt đến các dịch vụ và trung tâm dữ liệu của Ford khi gửi dữ liệu lên mạng. Nếu một bộ phận nào đó cần thay thế, hệ thống trên xe sẽ thông báo về Ford, từ đó hãng tiếp tục thông báo đến người dùng. Nhưng trong trường hợp chúng ta muốn tạo ra một hệ thống cảnh báo kẹt xe thì mọi chuyện rắc rối hơn nhiều bởi xe Ford được thiết lập chỉ để nói chuyện với server của Ford, không phải với server của Honda, Audi, Mercedes hay BMW. Lý do cho việc giao tiếp thất bại? Chúng ta thiếu đi một ngôn ngữ chung. Và để thiết lập cho các hệ thống này nói chuyện được với nhau thì rất tốn kém, đắt tiền.

Một số trong những vấn đề nói trên chỉ đơn giản là vấn đề về kiến trúc mạng, về kết nối mà các thiết bị sẽ liên lạc với nhau (Wifi, Bluetooth, NFC,...). Những thứ này thì tương đối dễ khắc phục với công nghệ không dây ngày nay. Còn với các vấn đề về giao thức thì phức tạp hơn rất nhiều, nó chính là vật vản lớn và trực tiếp trên còn đường phát triển của Internet of Things.

Có quá nhiều "ngôn ngữ địa phương"

Bây giờ giả sử như các nhà sản xuất xe ô tô nhận thấy rằng họ cần một giao thức chung để xe của nhiều hãng có thể trao đổi dữ liệu cho nhau và họ đã phát triển thành công giao thức đó. Thế nhưng vấn đề vẫn chưa được giải quyết. Nếu các trạm thu phí đường bộ, các trạm bơm xăng muốn giao tiếp với xe thì sao? Mỗi một loại thiết bị lại sử dụng một "ngôn ngữ địa phương" riêng thì mục đích của IoT vẫn chưa đạt được đến mức tối đa. Đồng ý rằng chúng ta vẫn có thể có một trạm kiểm soát trung tâm, thế nhưng các thiết bị vẫn chưa thật sự nói được với nhau.

Tiền và chi phí

Cách duy nhất để các thiết bị IoT có thể thật sự giao tiếp đó là khi có một động lực kinh tế để mạnh khiến các nhà sản xuất đồng ý chia sẻ quyền điều khiển cũng như dữ liệu mà các thiết bị của họ thu thập được. Hiện tại, các động lực này không nhiều. Có thể xét đến ví dụ sau: một công ty thu gom rác muốn kiểm tra xem các thùng rác có đầy hay chưa. Khi đó, họ phải gặp nhà sản xuất thùng rác, đảm bảo rằng họ có thể truy cập vào hệ thống quản lí của từng thùng một. Điều đó khiến chi phí bị đội lên, và công ty thu gom rác có thể đơn giản chọn giải pháp cho một người chạy xe kiểm tra từng thùng một.

6. Các "hầm chứa" tập trung hay những "hòn đảo Internet"?

Nếu xu hướng hiện nay tiếp tục, dữ liệu được các thiết bị gửi và nhận sẽ nằm trong các "hầm chứa" mang tính chất tập trung (centralized silo). Các công ty, nhà sản xuất có thể kết nối đến các hầm này để thu thập dữ liệu, từ đó tạo ra các bộ giao thức của riêng mình. Tuy nhiên, nhược điểm của mô hình này đó là dữ liệu sẽ trở nên khó chia sẻ hơn bởi người ta cứ phải tạo ra các đường giao tiếp mới giữa các silo. Dữ liệu sẽ phải di chuyển xa hơn và làm chậm tốc độ kết nối. Chưa kể đến các nguy cơ bảo mật và nguy cơ về quyền riêng tư của người dùng nữa.

Trái ngược với hướng đi trên, nếu như các nhà sản xuất có thể thống nhất được các bộ giao tiếp chung thì sẽ tạo ra các "hòn đảo Internet" (Internet of Islands). Thiết bị trong một căn phòng có thể giao tiếp với nhau, giao tiếp với các máy móc khác trong nhà và thậm chí là cả... nhà hàng xóm. Dữ liệu sẽ được phân bố trong một khu vực hẹp hơn nên đảm bảo các vấn đề bảo mật, đồng thời tăng tốc độ hoạt động. Dữ liệu cũng nhờ đó mà linh hoạt hơn, các thiết bị có thể phản hồi nhanh hơn. Bên cạnh đó, một khi các thiết bị có thể nói chuyện tốt với nhau, một hệ thống tự động hóa có thể bắt đầu học hỏi những gì đang diễn ra ở thế giới xung quanh, từ đó đưa ra hành động đúng ý muốn của người dùng.


Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2013

[Infographic] Bạn có an toàn khi online?

hiem_hoa_online

Năm 2007 thế giới có khoảng 1,3 tỉ người online, tức là có kết nối với mạng internet. Đến năm 2013, con số này đã tăng hơn gấp 2 lần, lên tới 2,7 tỉ người, chiếm gần 40% dân số thế giới. Như vậy cứ trung bình có 10 người thì hết 4 người xài Internet. Vậy thì họ, bạn, tôi và những người xài internet nói chung đã có những biện pháp hiệu quả nào để bảo vệ thiết bị cũng như những dữ liệu quí giá của mình trước các mối hiểm nguy đến từ thế giới online chưa? Mời các bạn xem qua Infographic này nhé.

are_you_safe_online


Thứ Sáu, 21 tháng 6, 2013

[Infographic] Tỷ lệ thống trị của các trình duyệt web

header

Ngày nay, Internet không còn xa lạ với chúng ta, nó đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Tất cả những vấn đề mà chúng ta muốn biết đều có thể được giải đáp chỉ sau vài cú click chuột. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể xem được lượng thông tin đó?

Có rất nhiều trình duyệt giúp bạn bước vào thế giới Internet. Mặc dù với cùng một mục đích sử dụng như nhau song mỗi trình duyệt lại có những ưu điểm riêng, phù hợp với một số nhu cầu nhất định.

Nhiều năm trước đây, Internet Explorer là sự lựa chọn phổ biến nhất của tất cả mọi người. Nhưng những năm gần đây đã có sự thay đổi. Theo các số liệu gần đây thì Google Chrome đã vượt qua Internet Explorer, trở thành trình duyệt được sử dụng nhiều nhất với hơn 40% người dùng internet.

Sự thay đổi này diễn ra như thế nào? Liệu tương lai sẽ có sự thay đổi nào khác không? Lịch sử ra đời các trình duyệt web cũng như số liệu thống kê về sự phân chia sử dụng các trình duyệt web đều được tổng hợp trong Infographic dưới đây.

Trinh_duyet_web


Thứ Tư, 19 tháng 6, 2013

Google xây dựng cơ sở dữ liệu chung để chặn hình sex trẻ em trên Internet

google

Theo trang Telegraph cho biết, hãng Google đang lên kế hoạch xây dựng một cơ sở dữ liệu (CSDL) toàn cầu dùng để chặn toàn bộ những hình ảnh sex trẻ em đang hiện hữu trên Internet, đây là một CSDL chung để các tổ chức, cơ quan làm luật và kể cả các công ty đối thủ khác (như Bing, Yahoo...) có thể sử dụng để chặn ảnh sex hiệu quả hơn. Ngoài ra, một số tiền trị giá khoảng 2 triệu USD cũng được Google tài trợ cho các lập trình viên trên toàn thế giới cùng nhau phát triển những công nghệ để chặn ảnh sex này.

Có rất nhiều tổ chức, website, cơ quan thi hành luật và các tổ chức từ thiện trên thế giới đã và đang nỗ lực tạo ra những công cụ và CSDL riêng về những tấm hình sex trẻ em trên mạng để chặn chúng xuất hiện trên các công cụ tìm kiếm ảnh. Tuy nhiên, vấn đề của họ là không tập trung được, không có cách nào để chia sẻ các CSDL đó với nhau và đây là một trong những lý do khiến Google đứng ra tạo lập một CSDL chung lớn hơn để gộp các dữ liệu riêng lẻ đó lại với nhau. Công cụ mới của Google sẽ giúp cho những tổ chức này cũng như các bộ máy tìm kiếm khác có thể chia sẻ dữ liệu hình ảnh (sex trẻ em) cho nhau, từ đó đánh dấu (flag) chúng và chặn không cho ảnh có cơ hội xuất hiện khi người dùng đang tìm kiếm ảnh trên Internet.

Một lý do khác khiến Google phải lên kế hoạch xây dựng là do sức ép của các chính trị gia. Trước đó, Thủ tướng Anh, ông David Cameron đã yêu cầu các trang tìm kiếm trên Internet (bao gồm cả Google) phải "sử dụng các khả năng kỹ thuật thiên tài của họ để diệt tận gốc rễ những hình ảnh (sex trẻ em) kinh tởm này". CSDL mới của Google sẽ được đưa vào vận hành trong vòng 1 năm tới, Telegraph cho biết.

Thật ra, bản thân Google đã có công nghệ chặn ảnh sex và dùng nó từ năm 2008 thông qua cơ chế nhận dạng màu da ảnh. Hãng hy vọng các tổ chức thứ ba có thể giúp tăng cường sức mạnh của công cụ đó thêm. Một phần trong kế hoạch đó là số tiền trị giá 1,27 triệu Bảng Anh (tương đương gần 2 triệu USD) do Google bỏ ra để hỗ trợ các lập trình viên độc lập có thể tạo ra những công nghệ mới, công cụ mới dùng để chặn triệt để ảnh sex trẻ em trên mạng Internet.


Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2013

Google tiết lộ "Project Loon" - Dự án mang Internet đến với toàn cầu bằng bóng bay

Screen Shot 2013-06-15 at 10444 PM

Phòng thí nghiệm bí mật Google X của Google - là nơi nghiên cứu và phát triển các dự án bí mật - mới đây đã tiếp tục cho ra lò một dự án đầy tiềm năng khác, có tên là "Project Loon". Về cơ bản, có thể hiểu "Project Loon" là dự án dùng các quả bóng bay để đưa Internet đến với người dùng ở các vùng miền khác nhau trên toàn thế giới. Vậy tại sao lại chọn các quả bóng lớn mà không phải là một vật nào khác? Google cho rằng bóng luôn có giá thành vô cùng rẻ, không những thế nó còn có thể bay lơ lửng ở một độ cao thích hợp - yếu tố cần thiết để mang Internet đến với những vùng có vị trí địa lý khó khăn trong việc lắp đặt các trạm phát mạng.

Nói về "Project Loon", cũng tương tự như xe không người lái, dự án này cũng chỉ mới ở giai đoạn "sơ khai" và cần một thời gian dài để hoàn thiện nó. Tuy nhiên, Google cho biết họ đã xây dựng thành công hệ thống điều khiển, và nói rằng các quả bóng này sẽ có thể bay lên cao khoảng 18.288m (tức cao hơn gấp đôi so với độ cao lý tưởng khi máy bay bay trên trời). Bên cạnh đó, Google tiết lộ họ đã phải sử dụng rất nhiều thuật toán và các phép tính cực kỳ phức tạp để đảm bảo rằng các quả bóng bay này có thể bay ổn định ở những nơi chịu ảnh hưởng nặng nề bởi gió và ánh nắng mặt trời.

Đề cập đến tốc độ, Google hứa hẹn các quả bóng này có thể mang Internet đến với toàn bộ người dùng ở dưới mặt đất với tốc độ nhanh gấp đôi so với mạng 3G hiện nay, và thậm chí nó còn nhanh hơn 3G khi được phát triển hơn nữa.

Cuối cùng, tập đoàn công nghệ Mỹ nhấn mạnh rằng các quả bóng trong "Project Loon" sẽ chỉ tương tác với dụng những ăng ten chuyên biệt, và tất nhiên người dùng không thể dùng smartphone/tablet để kết nối như WiFi thông thường. Bởi vậy, khi "Project Loon" hoàn tất, Google hy vọng sẽ có thể hợp tác tốt đẹp với những nhà cung cấp Internet nhằm thiết lập riêng một trạm thu sóng hay các ăng-ten chỉ dành riêng cho "Project Loon", nhằm chuyển tín hiệu sóng đặc biệt từ "bóng bay" đến với người dùng cuối.

Được biết, "Project Loon" đã được Google tiến hành thử nghiệm từ hai năm trước, tuy nhiên đến bây giờ hãng mới bắt đầu đưa vào thí nghiệm thực tế với quy mô lớn tại New Zealand. Trong tương lai, hãng hy vọng sẽ tiếp tục thử nghiệm "Project Loon" nhiều hơn nữa tại nhiều quốc gia và vùng miền khác nhau.




Google tiết lộ "Project Loon" - Dự án mang Internet đến với toàn cầu bằng bong bóng

Screen Shot 2013-06-15 at 10444 PM

Phòng thí nghiệm bí mật Google X của Google - là nơi nghiên cứu và phát triển các dự án bí mật - mới đây đã tiếp tục cho ra lò một dự án đầy tiềm năng khác, có tên là "Project Loon". Về cơ bản, có thể hiểu "Project Loon" là dự án dùng các quả bóng bay để đưa Internet đến với người dùng ở các vùng miền khác nhau trên toàn thế giới. Vậy tại sao lại chọn các quả bóng lớn mà không phải là một vật nào khác? Google cho rằng bóng luôn có giá thành vô cùng rẻ, không những thế nó còn có thể bay lơ lửng ở một độ cao thích hợp - yếu tố cần thiết để mang Internet đến với những vùng có vị trí địa lý khó khăn trong việc lắp đặt các trạm phát mạng.

Nói về "Project Loon", cũng tương tự như xe không người lái, dự án này cũng chỉ mới ở giai đoạn "sơ khai" và cần một thời gian dài để hoàn thiện nó. Tuy nhiên, Google cho biết họ đã xây dựng thành công hệ thống điều khiển, và nói rằng các quả bóng này sẽ có thể bay lên cao khoảng 18.288m (tức cao hơn gấp đôi so với độ cao lý tưởng khi máy bay bay trên trời). Bên cạnh đó, Google tiết lộ họ đã phải sử dụng rất nhiều thuật toán và các phép tính cực kỳ phức tạp để đảm bảo rằng các quả bóng bay này có thể bay ổn định ở những nơi chịu ảnh hưởng nặng nề bởi gió và ánh nắng mặt trời.

Đề cập đến tốc độ, Google hứa hẹn các quả bóng này có thể mang Internet đến với toàn bộ người dùng ở dưới mặt đất với tốc độ nhanh gấp đôi so với mạng 3G hiện nay, và thậm chí nó còn nhanh hơn 3G khi được phát triển hơn nữa.

Cuối cùng, tập đoàn công nghệ Mỹ nhấn mạnh rằng các quả bóng trong "Project Loon" sẽ chỉ tương tác với dụng những ăng ten chuyên biệt, và tất nhiên người dùng không thể dùng smartphone/tablet để kết nối như WiFi thông thường. Bởi vậy, khi "Project Loon" hoàn tất, Google hy vọng sẽ có thể hợp tác tốt đẹp với những nhà cung cấp Internet nhằm thiết lập riêng một trạm thu sóng hay các ăng-ten chỉ dành riêng cho "Project Loon", nhằm chuyển tín hiệu sóng đặc biệt từ "bóng bay" đến với người dùng cuối.

Được biết, "Project Loon" đã được Google tiến hành thử nghiệm từ hai năm trước, tuy nhiên đến bây giờ hãng mới bắt đầu đưa vào thí nghiệm thực tế với quy mô lớn tại New Zealand. Trong tương lai, hãng hy vọng sẽ tiếp tục thử nghiệm "Project Loon" nhiều hơn nữa tại nhiều quốc gia và vùng miền khác nhau.




Cisco: Gần nửa dân số trên toàn thế giới sẽ được kết nối Internet vào năm 2017

Screen Shot 2013-06-15 at 15733 PM

Tập đoàn mạng Cisco mới đây đã đưa ra một số dự đoán liên quan đến lượng người sử dụng Internet cũng như các thông tin về Internet trong 4 năm nữa, tức vào năm 2017. Theo đó, Cisco dự báo vào năm 2017, dung lượng người dùng Internet mỗi tháng sẽ đạt mức 121 exabytes - tương đương với dung lượng của 30 tỷ chiếc DVDs, 28 nghin tỷ máy MP3 hay 1 triệu tỷ tin nhắn - tăng 77 tỷ exabytes/tháng so với năm 2012 (năm 2012 đạt mức 44 exabytes/tháng). Cũng trong thống kê này, Cisco cũng cho biết vào năm 2017, sẽ có khoảng 3,6 tỷ người trên toàn thế giới được sử dụng Internet - chiếm khoảng 48% dân số toàn cầu.

Cisco cũng hứa hẹn vào năm 2017, 58% lưu lượng Internet sẽ được "truyền tải cục bộ" tới người dùng. Điều này có nghĩa trong năm 2017, phần lớn nội dung trên Internet sẽ được truyền tới người dùng cuối từ các sever gần đó, thay vì từ những sever đặt ở những nơi rất xa. Lợi ích của việc này là chất lượng truyền tải, tốc độ mạng sẽ trở nên nhanh chóng hơn và ổn định hơn nhiều lần. Thống kê từ Cisco cũng chỉ ra rằng trong 5 năm, từ 2012 đến 2017, tốc độ băng thông toàn cầu được dự báo sẽ tăng từ 11,3 Mbps lên 39 Mbps.

Một số thống kê dự báo khác về lưu lượng Internet trong năm 2017
  • Có gần 2 tỷ người dùng xem video (trừ những ai dùng điện thoại di động) qua Internet;
  • Có hơn 19 tỷ kết nối mạng toàn cầu (bao gồm thiết bị cá nhân, kết nối M2M);
  • Gần một nữa lưu lượng IP đến từ các thiết bị không phải PC, như smartphone/tablet/TV;
  • Có khoảng 8 tỷ kết nối/thiết bị tương thích với giao thức IPv6.


Thứ Năm, 6 tháng 6, 2013

O3b Networks chuẩn bị phóng 4 vệ tinh internet tốc độ cao vào ngày 24/6

O3b
Những vùng màu vàng sẽ được O3b cung cấp internet

Vài năm trước, chúng ta từng nghe đến một dự án có tên là O3b Satellite Constellation của O3b Networks, với việc phóng 16 vệ tinh lên vũ trụ để cung cấp mạng internet không dây tốc độ cao cho những nơi khó tiếp cận internet trên thế giới. Sau một thời gian ít được người nhắc đến, tưởng chừng như dự án này đã chìm vào quên lãng, nhưng rất may là nó vẫn được thực hiện đúng tiến độ. O3b Networks cho biết, vào ngày 24/6 tới đây thì họ sẽ phóng 4 vệ tinh đầu tiên lên vũ trụ, mở đầu cho việc đưa dự án O3b Satellite Constellation đi vào hoạt động.

Nếu lần phóng này thành công, O3b dự định sẽ tiếp tục phóng thêm 4 vệ tinh nữa trong tháng 9 tới đây và hoàn thành việc đưa tổng cộng 16 vệ tinh lên vũ trụ trong đầu năm 2014. Những vệ tinh này sẽ là đầu mối cung cấp mạng internet giá rẻ cho những vùng mới nổi như châu Mỹ Latin, Trung Đông, châu Á, châu Úc và châu Phi. Mạng internet mà họ cung cấp sẽ đạt tốc độ lên đến 1,2Gbps khi download. Ngày 24/6 tới đây thì trang Ariane Space sẽ truyền hình trực tiếp sự kiện phóng 4 vệ tinh kể trên của O3b Networks ở đây.

Được biết hồi năm 2008, ngân hàng HSBC, Google và Liberty Global cũng đã đầu tư 3 tỷ USD vào dự án kể trên của O3b Networks.


Thứ Ba, 28 tháng 5, 2013

Các nhà nghiên cứu sử dụng tín hiệu liên hợp để khử nhiễu trong đường truyền Internet

Internet_du_lieu_lien_hop

Theo một nghiên cứu của Phòng thí nghiệm Bell vừa được đăng tải trên tạp chí khoa học Nature Photonics, các nhà nghiên cứu đã tìm ra cách làm tăng đáng kể độ tin cậy của kết nối Internet. Thông thường người ta dùng sợi quang để truyền dữ liệu, nhưng khi truyền ở khoảng cách xa thì cần rất nhiều năng lượng, và càng nhiều năng lượng có nghĩa là càng nhiều xung đột và càng nhiều nhiễu. Để khắc phục tình trạng này, nghiên cứu của Bell Labs sử dụng tín hiệu liên hợp (tức cùng độ lớn và pha với tín hiệu gốc nhưng ngược hướng truyền) để nhiễu bị triệt tiêu. Cách này tương tự như phương pháp được áp dụng trên tai nghe khử nhiễu, đó là một chiếc micro sẽ lắng nghe tạp âm từ môi trường, sau đó thiết bị sẽ tạo tín hiệu ngược với tạp âm để tai chúng ta không thể nghe thấy.

Cụ thể hơn, nhà nghiên cứu Xiang Liu và các cộng sự sẽ gửi cùng lúc hai tín hiệu gần giống nhau: tín hiệu thông thường và tín hiệu đảo ngược của nó. Khi hai tín hiệu này được truyền đi, nhiễu ở một luồng sẽ bị khử bởi chính nhiễu ở luồng còn lại (vì chúng ngược hướng nhau). Kết quả đạt được sẽ là tốc độ truyền tải ở mức 400Gbps (tương đương 50GB/s) với khoảng cách 12.800 kilomet, nhanh hơn nhiều so với hệ thống cáp quang 1Gbps của Google ở Mỹ. Ngoài ra, giải pháp của tiếng sĩ Liu còn giúp giảm băng thông tiêu thụ bởi vì các thiết bị sẽ không phải liên tục gửi nhận lại tín hiệu do lỗi xảy ra.

Vậy tại sao các nhà khoa học không sử dụng một thiết bị để lắng nghe nhiễu trên đường truyền mạng, sau đó tạo ra tín hiệu ngược để khử giống như trên tai nghe? Theo giải thích của Liu, việc áp dụng cách này lên hạ tầng Internet thực chất cũng đã được nghĩ đến nhưng việc áp dụng quá khó khăn bởi có nhiều luồng dữ liệu được truyền cùng lúc, và các thiết bị lắng nghe nhiễu này đôi khi sẽ phải nằm ở ngoài... đại dương. Liu nới với BBC rằng "đôi khi bạn gửi dữ liệu từ London đi New York, nhưng khi khác bạn gửi từ London đi Paris. Các kết nối liên tục thay đổi và bạn không thể đặt hết thiết bị trung gian ở mọi đường kết nối". Ngoài ra, để thiết lập hệ thống lọc nhiễu như vậy cần rất nhiều tiền và nó rất không thực tế.