Lịch sử của iOS qua từng phiên bản
Đã 6 năm trôi qua kể từ ngày Steve Jobs giới thiệu chiếc iPhone đầu tiên, tháng 1/2007. Từ một chiếc iPhone ban đầu, Apple đã tạo ra hàng loạt các sản phẩm khác như iPod touch, iPad hay Apple TV... Hôm nay mời các bạn cùng tìm hiểu về lịch sự các phiên bản iOS, từ một hệ điều hành không cho cài thêm ứng dụng, không hỗ trợ cắt/dán, đa nhiệm cho đến phiên bản 5.0 với điện toán đám mây, bản 6.0 với sự chia tay của các ứng dụng Google và iOS 7 với một sự lột xác về giao diện.
iOS hay OS X?
Trong suốt buổi giới thiệu về hệ điều hành cho di động mới của họ, Apple luôn nhấn mạnh rằng iPhone OS chia sẻ những nhân Unix cơ bản với hệ điều hành Mac OS X dùng cho máy tính. Tuy nhiên, iPhone OS đã được tinh chỉnh và tối giản hóa khá nhiều, đủ để tạo sự khác biệt với Mac OS X lúc đó. Cái tên iPhone OS đã được Apple sử dụng trong 4 năm liên tiếp trước khi chuyển thành iOS cùng với sự ra mắt của iPhone 4 tháng 6/2010. Để cho thống nhất, chúng ta sẽ dùng iOS chung trong bài viết này.
iOS 1: sự ra đời của iPhone
Dù bạn tin hay không, khi mới ra mắt thì hệ điều hành iOS thật thảm hại so với các nền tảng khác nếu so sánh trực diện các tính năng, nhất là khi Apple đã quá giới hạn nó. Vào năm 2007, hầu hết các nền tảng khác như Windows Mobile, Palm OS, Symbian hay Blackberry OS đều đang ở đỉnh cao của chúng so với một iOS non nớt. Để rõ hơn, vào thời điểm đó iOS không hỗ trợ 3G, không hỗ trợ đa nhiệm, không cho cài thêm phần mềm từ bên thứ 3, không cho cắt/dán văn bản, không hỗ trợ đính kèm file trong email, tin nhắn MMS, tài khoản Mail for Exchange, màn hình chủ không tùy biến, không hỗ trợ tethering, giấu file thư mục khỏi người dùng, không cho phép chỉnh sửa văn bản, gọi điện bằng giọng nói...
Thay vì cạnh tranh về cấu hình thì Apple lại tập trung vào trải nghiệm gốc của người dùng, về tốc độ, sự ổn định của các ứng dụng và chỉ đưa ra 1 vài tính năng thôi nhưng tất cả những tính năng đó đều cực kỳ tốt so với những gì đang có trên thị trường vào năm 2007. Có rất nhiều sáng tạo, đột phá trong bản iOS 1 nhưng 3 điểm này đã làm thay đổi hoàn toàn ngành công nghiệp điện thoại:
Giao diện người dùng: Trước khi iOS ra mắt thì điện thoại thông minh thường không sử dụng màn hình cảm ứng hoặc nếu có thì là loại dùng bút stylus cùng cảm ứng điện trở. iPhone đã hoàn toàn thay đổi điều đó với màn hình cảm ứng điện dung giúp chúng ta tương tác dễ dàng hơn. Nhưng quan trọng hơn là việc Apple đã kết hợp được phần cứng xuất sắc đó và phần mềm đơn giản, mạnh mẽ hơn hẳn tất cả các hệ thống khác. Bằng cách loại bỏ tất cả các phím cứng, iPhone đã trở thành thiết kế tối ưa hóa hoàn toàn cho cảm ứng. Các tính năng như zoom đa điểm hay các cử chỉ trượt inertial scrolling làm cho ứng dụng hoạt động mượt mà, tự nhiên hơn rất nhiều. Ngoài ra, tốc độ, thời gian phản hồi và cách tương tác của iOS 1.0 vẫn thật tuyệt vời sau 5 năm.
Trình duyệt web Mobile Safari: Dù cho chúng ta có “chửi” Steve Jobs vì đã khoác lác về việc trình duyệt Mobile Safari đi xa hơn các đối thủ hàng năm trời, về việc nó không bao giờ hỗ trợ Flash nhưng đây là trình duyệt di động đầu tiên cho người dùng cảm giác sử dụng tuyệt vời và mạnh mẽ như khi đọc web trên máy vi tính. Trong khi tất cả các trình duyệt ở hệ điều hành khác cố gắng format lại trang web, di chuyển các cột chữ, hình ảnh một cách thảm hại, phá vỡ cấu trúc của trang web thì Mobile Safari lại hiển thị rất xuất sắc, hỗ trợ các cử chỉ zoom, trượt mà không trình duyệt nào có thể làm được vào thời điểm đó.
Một chiếc iPod màn hình lớn: Apple đã sử dụng hệ sinh thái iPod và iTunes đầy mạnh mẽ để tạo ra một điểm tựa cực kỳ vững chắc cho iOS ngay từ những ngày đầu tiên. Sau đó, họ lại tiếp tục tạo ra 1 hệ sinh thái lớn và vững chắc hơn với nhạc, phim, TV, sách và ứng dụng. Ở thời điểm hiện tại, có thể bạn không còn nghe nhạc nhiều trên iPhone nhưng 5 năm trước thì tính năng nghe nhạc thật sự là điểm tựa lớn cho iOS cất cánh.
iOS 1.0 cũng giới thiệu rất nhiều tính năng mới rất quan trọng và đi trước thời đại:
Google Maps xuất sắc hơn rất nhiều trên iPhone so với bất cứ nền tảng nào khác. Apple đã tùy biến chương trình dẫn đường này cho nó nhanh chóng, mượt mà hơn với tính năng pinch to zoom. Đặc biệt hơn nữa là Google Maps iOS thậm chí còn dễ dùng, đơn giản và thuận tiện hơn cả bản cho máy tính.
Hộp thư thoại Visual voicemail (VN không có xài cái này nhiều) là một bước tiến mới của Apple, nó thể hiện sức mạnh của hãng trong việc thương thuyết với các nhà mạng. Thay vì phải trải qua hàng loạt các menu khác nhau, nghe toàn bộ voicemail trước khi đến cái mình cần thì người dùng iPhone chỉ đơn giản bấm 1 nút là nghe được voicemail mà họ muốn nghe. Visual Voicemail thể hiện rõ ràng Apple chứ không phải nhà mạng mới chính là công ty mang lại trải nghiệm cuối cho người dùng.
iTunes Sync cũng là một tính năng không thể thiếu. Bất cứ ai sử dụng HotSync của Palm hay ActiveSync của Microsoft cũng biết sự quan trọng của việc đồng bộ hóa là như thế nào. Đây là 1 ví dụ điển hình cho khả năng đơn giản hóa các tính năng, thao tác phức tạp của Apple.
Bàn phím: Bàn phím trên iOS 1 có lẽ là bàn phím ảo đầu tiên cho phép chúng ta thao tác thoải mái với ngón tay của mình. Bàn phím của iOS chỉ hiện lên khi nào người dùng cần nó và tự động ẩn đi để tăng diện tích màn hình, rất tốt.
Khi nó ra mắt thì rất nhiều người dùng vẫn không hề coi iOS 1.0 là một hệ điều hành cho điện thoại thông minh đúng nghĩa khi mà Apple không cho phép chạy các chương trình từ bên thứ 3. Họ cố gắng lấp đầy khoảng trống đó bằng ứng dụng nền web nhưng HTML của năm 2007 thật sự không đủ sức mạnh để đáp ứng nhu cầu người dùng. iOS 1.0 cũng chỉ hỗ trợ duy nhất 1 thao tác đa nhiệm: nghe nhạc iPod. Dù rằng đa nhiệm ở các nền tảng khác cũng chẳng xuất sắc gì cho cam nhưng ít ra thì nó cũng có còn iOS thì không.
iOS 1.0 cũng giới thiệu một khái niệm mới làm thay đổi toàn bộ thói quen sử dụng điện thoại thông minh của chúng ta: ẩn hệ thống file khỏi người dùng. Hiện thực này sẽ làm cho thiết bị đơn giản và dễ sử dụng hơn nhưng nó cũng đồng thời gây khó khăn mỗi khi thực hiện các thao tác nâng cao, chẳng hạn như gửi đính kèm trong 1 email reply, điều mà mãi đến giờ iOS vẫn chưa làm được. Một vài giới hạn khác có thể kể đến là việc thay đổi nhạc chuông, quá phức tạp so với chỉ 1 vài thao tác trên những điện thoại không thông minh!
Cuối cùng, cái chúng ta cần đề cập đến là màn hình Springboard. Đây là màn hình chủ của các thiết bị iOS. Màn hình này sẽ xuất hiện mỗi khi chúng ta nhấn nút Home mà không cần biết đang ở trong ứng dụng nào. Tuy đơn giản và tiện dụng nhưng cho đến bây giờ thì iOS cũng vẫn chưa có nhiều widget hay các thông tin để tùy biến trên màn hình chủ, những tính năng mà Windows Mobile và Symbian từng tự hào.
Các bản cập nhật iOS 1
3 tháng sau khi ra mắt iPhone, Apple đưa ra bản cập nhật đầu tiên iOS 1.1.1. Bản cập nhật này gây nhiều chú ý vì nó tạo ra 1 “thói quen” mới: Apple sẽ cố gắng cập nhật hệ điều hành cho thiết bị chừng nào họ còn có thể. Ngoài ra, 1.1.1 còn đánh dấu sự ra đời của 1 thiết bị mới là iPod touch.
Tính năng đáng chú ý nhất của bạn 1.1.1 này là kho nhạc Music Store trên iTunes cho phép người dùng mua ngay trên điện thoại. Ngoài ra, iPhone cũng hỗ trợ TV out và 1 shortcut khi nhấn kép nút home, một tính năng mà Apple liên tục thay đổi qua các phiên bản. iOS 1.1.3 sau đó bổ sung thêm khả năng sắp xếp các biểu tượng ở màn hình chủ cũng như shortcut của các trang mà Apple gọi là Web Clips.
iOS 2: ứng dụng:
Khoảnh khắc nổi bật tiếp theo của iOS đến vào tháng 7/2008, khi Apple giới thiệu iOS 2 với kho ứng dụng App Store. Các ứng dụng trên App Store có thể được mua trực tiếp trên thiết bị hoặc qua iTunes trên máy tính, những cách thức tương tác rất khác lạ so với các phân phối phần mềm di động truyền thống.
App Store: Apple App Store là một kênh phân phối ứng dụng hoàn toàn khác biệt, nó không chỉ giúp người dùng cài đặt ứng dụng trên máy tính mà còn trên chính bản thân thiết bị. Trước khi App Store ra mắt, người ta chỉ có thể mua ứng dụng từ các trang web hay các kho ứng dụng bên thứ 3 vốn tích hợp khá lỏng lẻo vào hệ điều hành. Đặc biệt hơn, App Store sử dụng chung một tài khoản với kho nhạc iTunes vốn đã quá phổ biến trước đó nên người dùng không cần phải đăng ký mới, nhập lại thông tin thẻ tín dụng hay các thao tác phức tạp khác.
Bộ công cụ phát triển phần mềm iOS SDK: Bộ công cụ phát triển phần mềm thể hiện sự mạnh mẽ của iOS so với các nền tảng khác, nó hỗ trợ tối đa không gian cho lập trình viên sáng tạo. Hệ quả là các ứng dụng iOS trở nên đẹp hơn, chất lượng cao hơn bất cứ một nền tảng nào trước đó.
Dù vậy, App Store không phải là không có điểm yếu. Đầu tiên, chính là việc Apple ngăn cấm người dùng cài đặt thêm phần mềm từ các kho ứng dụng khác. Việc này có thể không quá tệ nếu như chính sách kiểm duyệt phần mềm của hãng khá hơn, họ có thể dễ dàng loại bỏ những ứng dụng không thích trong khi phần mềm đó vẫn hiện diện trên các kho ứng dụng đối thủ.
Một ưu điểm khác của App Store là nó đã hạ giá phần mềm di động xuống rất nhanh. Nếu như trước đây, các ứng dụng cao cấp nhất có thể lên tới 40$ thì trên App Store hầu hết chúng đều giao động từ 0,99-5$. Với việc giảm giá này thì người dùng App Store và cả các lập trình viên đều được lợi so với cách phân phối truyền thống trước kia. Dù vậy, chúng ta cũng có một giới hạn ở đây: chỉ những ứng dụng đứng trong top 40 mới bán được nhiều còn các ứng dụng ở dưới rất khó mà vươn lên được. Dù Apple đã cố gắng khắc phục bằng cách đưa ra các mục khác nhau nhưng tình trạng này khó mà xử lý trong một sáng một chiều được.
Hỗ trợ Microsoft Exchange: iOS 2 cho thấy Apple đã bắt đầu bổ sung thêm các tính năng vốn còn thiếu hụt trước kia. Quan trọng nhất trong đợt nâng cấp lần này chính là hỗ trợ giao thức Microsoft Exchange để push mail, lịch và danh bạ. Ngoài ra, hãng cũng cho phép người dùng iPhone tìm kiếm danh bạ thay vì phải cuộn lên cuộn xuống như trước kia. Bên cạnh đó, iOS cũng hỗ trợ chọn nhiều email để xóa, di chuyển... thay vì chọn từng cái một.
MobileMe: Apple cũng sớm giới thiệu dịch vụ đám mây của họ là MobileMe để thay thế cho .Mac trước kia. MobileMe cho phép đồng bộ email, lịch trên toàn bộ các thiết bị sử dụng chung tài khoản. Tuy nhiên, dịch vụ này của Apple chưa bao giờ phổ biến vì nó có giá quá mắc, tới 99$ một năm và không đáng tin cậy khi mới ra mắt.
iOS 2.0 ra mắt cũng iPhone 3G và nó hỗ trợ thêm 1 số tính năng liên quan tới phần cứng mới như 3G và A-GPS.
Các bản cập nhật iOS 2: iOS 2 không phải là 1 phiên bản thật sự ổn định khi hàng loạt người dùng báo cáo về các lỗi pin kém, treo ứng dụng hay mất thoại. Apple đã cố gắng sửa chữa bằng các bản cập nhật 2.0.1 và 2.0.2 nhưng chúng vẫn không giải quyết triệt để cho đến khi 2.1 ra mắt vào thàng 9 năm 2008. Bản 2.1 cũng đồng thời tăng tốc quá trình động bộ hóa với iTunes. Bản 2.2 xuất hiện vào tháng 11 cùng năm bổ sung thêm tính năng Street View, dẫn đường bằng cách phương tiện công cộng và đi bộ.
iOS 3
Ra mắt cùng iPhone 3GS vào tháng 6/2009, Apple bổ sung hàng loạt các tính năng vào hệ điều hành này. iOS 3 không thật sự có nhiều tính năng lớn nhưng những tính năng nhỏ của nó là rất nhiều.
Cắt, copy và dán: Trên iOS 3, Apple đã giới thiệu một phương thức mới để chúng ta tương tác với màn hình cảm ứng tốt hơn khi thực hiện các thao tác cắt và dán. Trước đây, việc thao tác trên màn hình cảm ứng đòi hỏi chúng ta phải sử dụng các cây viết stylus mang tính chính xác cao còn Apple đã bổ sung thêm kính lúp phóng to chữ và thanh slider phù hợp hơn.
Tìm kiếm Spotlight: Cuối cùng thì Apple cũng đã thành công trong việc đưa ra một công cụ tìm kiếm hoàn chỉnh cho người dùng iOS. Chỉ cần quẹt ngang ngón tay sang trái, iOS sẽ hiển thị một màn hình nhập dữ liệu cho phép chúng ta tìm kiếm danh bạ, email, lịch, ghi chú, các bài nhạc hay ứng dụng... Đây là một tính năng đã xuất hiện trên Blackberry, Palm và WebOS trước đó, tìm kiếm nhanh từ màn hình chủ chỉ bằng 1 phím bấm.
Push notification cho các ứng dụng bên thứ 3: Cho dù đã được hứa hẹn từ iOS 2 nhưng phải đến bản 3.0 thì Push notification mới chính thức được ra mắt. Chức năng này là câu trả lời của Apple cho những than phiền về đa nhiệm khi nó hiện cảnh báo của các ứng dụng cần gây chú ý với người dùng. Tuy nhiên, không phải ai cũng hài lòng với Push notification vì đôi khi nó liên tục hiện lên trên màn hình, gây rất nhiều khó chịu.
Ở iOS 3, chúng ta cũng có thêm hỗ trợ tin nhắn MMS, có thêm quay video, bàn phím nằm ngang, ứng dụng ghi chú giọng nói, cho phép xóa dữ liệu trên máy từ xa, hỗ trợ bluetooth đa kênh và đặc biệt là cho phép iPhone trở thành modem 3G cho máy tính khi kết nối qua Bluetooth hoặc cổng USB.
Một tính năng tiêu chuẩn khác của điện thoại thông minh mà Apple cũng thêm vào là gọi điện bằng giọng nói Voice Control. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận là họ đã đi xa hơn thế khi cho phép người dùng điều khiển nhạc, gọi bài hát.... và hỗ trợ nhiều loại ngôn ngữ khác nhau.
Một số chức năng khác của iOS 3 có thể kể tới:
- Chạm vào màn hình để lấy nét khi chụp hình
- Mua phim, chương trình TV, sách trực tiếp trên thiết bị.
- Bổ sung Parental controls để cha mẹ kiểm soát con cái tốt hơn
- Ra mắt find my iPhone
- Bổ sung in-app purchase và subscriptions trong App Store
- Cho phép nghe nhạc lưu sẵn trong máy (iPod) từ các ứng dụng bên thứ 3
- Hỗ trợ dock phụ kiện Bluetooth và kết nối peer-to-peer
- Ứng dụng compass (iPhone 3GS)
- Tự động điền thông tin (autofill) ở Safari
- Bổ sung thêm hàng loạt API mới vào SDK.
Các bản cập nhật iOS 3:
Vài tháng sau bản 3.0, Apple ra mắt 3.1 với nhiều tính năng mới như khóa máy từ xa, tải nhạc chuông, Genius (đề cử dựa vào thói quen của người dùng) cho nhạc, điều khiển giọng nói qua thiết bị Bluetooth.
iOS 3.2: sự ra đời của iPad
Bản cập nhật 3.2 là một bản nâng cấp lớn của Apple nhằm giúp iOS hoạt động tốt hơn với một thiết bị có độ phân giải khác lạ và màn hình lớn như iPad. Ngoài ra, phiên bản này cũng bổ sung thêm chế độ hiển thị ngang ở màn hình chủ, menu pop-up và rất nhiều các thay đổi khác.
Giao diện người dùng: Thay đổi lớn nhất của iOS chính là giao diện người dùng, đặc biệt là bên trong các ứng dụng do Apple phát triển đi kèm với máy. Các ứng dụng như ghi chú, email đều xuất hiện thêm 1 thanh sidebar ở bên trái chứa các nội dung lớn như danh sách email, ghi chú... còn nội dung của email và ghi chú đó hiện ở bên phải. Việc bổ sung thêm thanh sidebar đã đồng thời giúp Apple loại bỏ rất nhiều thao tác cần đến phím back như trước kia, muốn hiện nó bạn chỉ cần xoay ngang màn hình lại là được, thật sự tiện lợi. Ngoài ra, ở màn hình dọc thì iPad sẽ hiển thị 1 menu popup như các bạn thấy dưới đây, không yêu cầu phải chuyển màn hình như iPhone.
Thiết kế ứng dụng mới: Các ứng dụng cho iOS có rất nhiều thay đổi lớn trên iPad, điển hình như Safari, App Store hay hình ảnh... Hầu hết chúng đều được thiết kế đơn giản, tiện lợi hơn mà Setting hay Photos là những ví dụ điển hình.
Có một nhận xét về iPad mà rất nhiều người đã nói: đó chỉ là 1 chiếc iPhone phóng to. Những nhận xét này có phần đúng nhưng cũng có rất nhiều điều sai. Về mặt nhân điều hành, iOS 3.2 vẫn giữ nguyên với các tương tác y như cũ nhưng một số ứng dụng đã được thay đổi triệt để, phù hợp hơn với màn hình lớn.
Bản iOS 3.2 chỉ dành riêng cho iPad chứ không có bản cho iPhone.
iOS 4: đa nhiệm
Ra mắt vào tháng 6/2010, mục tiêu của iOS 4 rất đơn giản: thêm các tính năng mới cho người dùng cao cấp: đa nhiệm, tạo folder cho ứng dụng, Wi-Fi tethering, tùy chỉnh tìm kiếm Spotlight (cho cả web và wikipedia), hợp nhất tất cả các hộp thư, hỗ trợ nhiều tài khoản Exchange....
Gây chú ý nhất của iOS 4 tất nhiên chính là đa nhiệm, tính năng mà các hệ điều hành khác đều đã hỗ trợ từ rất lâu. Tuy nhiên, Apple không trực tiếp cho các ứng dụng chạy đa nhiệm mà chúng đều dựa trên 6 dịch vụ đa nhiệm khác nhau nhằm duy trì tính ổn định của hệ thống, tiết kiệm pin so với các giải pháp đa nhiệm đầy đủ. Dù vậy, lựa chọn này cũng làm Apple bị phàn nàn khá nhiều.
Đa nhiệm cũng đồng thời mang lại một chức năng mới cho nút Home, bạn sẽ nhấn nó 2 lần để gọi lên menu đa nhiệm chứa tất cả các ứng dụng đang chạy nền. Để tắt nó đi ta sẽ nhấn giữ và bấm vào dấu X. Ngoài ra, nếu quét ngón ta sang trái ở màn hình này thì bạn sẽ xuất hiện widget điều khiển nhạc hay tăng giảm độ sáng màn hình.
Facetime: Apple không phải là công ty đầu tiên đưa ra các dịch vụ thoại video nhưng giải pháp của họ đơn giản và tốt hơn khá nhiều so với các giải pháp tương tự từ đối thủ. Facetime chỉ hoạt động giữa iPhone, các thiết bị iOS và sau này có thêm Mac. Tuy Apple đã hứa biến Facetime thành 1 chuẩn chung của ngành công nghiệp nhưng mãi đến thời điểm này thì đó vẫn chưa thành hiện thực.
Folder: Trên iOS 4, Apple cuối cũng cũng cho người dùng sắp xếp các chương trình vào những folder khác nhau nhằm giảm thiểu tình trạng hàng chục trang màn hình ứng dụng như trước kia. Để thực hiện việc này, tất cả những gì bạn cần làm là giữ và kéo 2 ứng dụng vào nhau. Nếu cùng thể loại, chẳng hạn như cùng là game hay ứng dụng du lịch thì iOS sẽ tự động đặt tên folder tương ứng. Giải pháp của Apple thật sự rất đơn giản và dễ dùng, đó là lý do tại sao Google cũng làm điều tương tự trên Ice Cream Sandwich.
Màn hình Retina: iOS 4 cũng đánh dấu sự hỗ trợ màn hình Retina độ phân giải cao và bộ xử lý A4 tốc độ nhanh, giúp lập trình viên có nhiều không gian sáng tạo các ứng dụng chất lượng cao. Và bởi vì độ phân giải này nhân đôi so với iPhone trước đó, các lập trình viên không nhất thiết phải chỉnh sửa ứng dụng của họ để chúng tương thích với Retina.
Các tính năng doanh nghiệp: Cho dù iOS 4 vẫn chưa thật hoàn hảo với người dùng trung thành của Blackberry, Apple cũng cố gắng khắc phục tình trạng đó bằng cách hỗ trợ nhiều tài khoản Exchange cùng một lúc, hợp nhất tất cả các hộp thư vào 1 giao diện duy nhất và gom các thư riêng lẻ vào thread giống với tin nhắn. Hệ thống kiểm tra chính tả cũng hoạt động tốt hơn trên toàn hệ thống (có cả tiếng Việt).
Các bản cập nhật của iOS 4:
Vụ ăng ten tai tiếng của iPhone 4: Thật đáng tiếc cho Apple, iOS 4 đi kèm iPhone 4 cũng đồng thời mang đến những tai tiếng với việc bắt sóng yếu khi người dùng cầm máy tại những điểm nhất định. Apple cho rằng đây là lỗi của hệ điều hành không hiển thị đúng mức sóng thực tế nên họ cho ra mắt bản cập nhật nhẹ iOS 4.0.1 để sửa lỗi này.
Bản cập nhật tiếp theo là iOS 4.1 ra mắt Game Center, một dạng mạng xã hội cho những người chơi game trên nền tảng iOS. iOS 4.1 đồng thời cho người dùng thuê các chương trình TV Show ngay trên thiết bị và bổ sung mạng xã hội âm nhạc Ping của hãng. Camera cũng bổ sung thêm tính năng chụp ảnh HDR kết hợp 2 tấm ảnh ở 2 mức độ phơi sáng khác nhau nhằm tại ra ảnh chất lượng cao hơn, hỗ trợ tải video full HD trực tiếp lên YouTube.
Không chỉ dừng lại ở iPhone mà iOS 4.2.1 bổ sung đa nhiệm và folder cho iPad, hợp nhất toàn bộ các thiết bị iOS vào 1 phiên bản hệ điều hành duy nhất. Song song đó, iOS 4.2.1 hỗ trợ AirPlay, chức năng chia sẻ video giữa các thiết bị iOS và Apple TV và AirPrint cho những ai cần in ấn.
iOS 4.2.5 chủ yếu hỗ trợ người dùng Verizon, kích hoạt tính năng WiFi Mobile Hotspot. iOS 4.3 ngay sau đó đồng thời cho phép các ứng dụng bên thứ 3 hoạt động với AirPlay, iTunes Home Sharing cho phép nghe nhạc qua mạng khi không ở nhà đồng thời bổ sung Personal Hotspot cho các máy GSM.
iOS 5: Siri và nhiều hơn nữa
Giống như iOS 3, iOS 5 cũng bán ra cùng với 1 thiết bị nâng cấp nhẹ của iPhone là iPhone 4S thay vì 1 phiên bản hoàn toàn mới. Và cũng tương tự bản 3, bản nâng cấp lớn thứ 5 này có rất nhiều tính năng mới nhằm tăng cường sự cạnh tranh của hãng trên thị trường.
Siri: Chỉ hoạt động với iPhone 4S, Siri thay thế Voice Control trong vai trò 1 “trợ lý ảo” nhằm thực hiện các mệnh lệnh người dùng đưa ra. Siri không chỉ đơn thuần đáp ứng các câu lệnh theo khuôn mẫu mà nó sẽ lắng nghe câu hỏi của bạn và cố gắng phản hồi như 1 người bình thường. Siri có thể tương tác với các ứng dụng trên máy như lịch, danh bạ hay web WolframAlpha.
Siri hiện tại vẫn đang chỉ dừng lại ở bản thử nghiệm và nó luôn phải kết nối với máy chủ mỗi khi muốn thực hiện việc gì, ngay cả soạn tin nhắn hay tạo mục lịch. Đôi khi Siri cho ra những kết quả rất quái đản nhưng nó là 1 tính năng của tương lai hứa hẹn sẽ rất phổ biến trong những năm tới.
Notification Center: Thay vì sử dụng những push notification liên tục hiện lên màn hình gây khó chịu cho người dòng, ở bản iOS 5 Apple đã gom các cảnh báo vào 1 trung tâm duy nhất Notification Center. Tương tự Android, trung tâm cảnh báo của iOS sẽ xuất hiện khi bạn vuốt từ trên xuống dưới và xóa những cảnh báo bằng cách bấm dấu x nhỏ. Notification Center cũng cho phép cung cấp nhanh các thông tin thời tiết hay chứng khoán bằng widget tích hợp sẵn.
Apple cũng cho phép người dùng lựa chọn ứng dụng nào được phép cảnh báo bạn, cảnh báo theo kiểu nào và ứng dụng nào không được lên tiếng, khá hữu ích. Ngoài ra, các cảnh báo cũng có thể được xuất hiện ở màn hình khóa máy và khi hiển thị trong ứng dụng, cảnh báo chỉ hiện nhẹ ở trên đỉnh và sẽ tự động mất đi nếu người dùng không bấm vào, giảm thiểu tình trạng khó chịu theo kiểu pop up trước kia.
iMessage: Apple đã bắt đầu tấn công doanh thu của các nhà mạng cũng như dịch vụ Blackberry Messenger bằng nền tảng tin nhắn giữa các thiết bị iOS với nhau. Không chỉ iPhone mà người dùng iPad và iPod touch cũng được hưởng lợi thì vào iMessage. Nếu dùng iPhone, bạn có thể sử dụng chính số điện thoại làm tài khoản iMessage hoặc 1 Apple ID nếu dùng các thiết bị khác. Ngay cả khi sử dụng tin nhắn thông thường, nếu phát hiện người dùng bên kia cũng có iMessage thì hệ thống sẽ tự động chuyển đổi nó nhằm tiết kiệm chi phí. Tính đến thời điểm hiện tại, iMessage vẫn chưa thật phổ biến như BBM nhưng nó là 1 khởi đầu rất tốt của Apple.
Không cần dùng PC nữa: Đây có lẽ là tính năng quan trọng nhất trên iOS 5, Apple đã loại bỏ vai trò của máy tính trong việc kết nối với các thiết bị iOS, ngay cả việc active máy cũng được thực hiện không dây. Việc loại bỏ vai trò của PC đồng nghĩa với iPhone và iPad đóng vai trò lớn hơn trong việc trở thành thiết bị máy tính của người dùng trong tương lai, một bước đi với rất nhiều thay đổi lớn.
iTunes WiFi Sync: Với những ai muốn dùng PC thì họ được tặng thêm 1 tính năng hữu ích khác là đồng bộ hóa thông qua WiFi thay vì buộc phải dùng cáp như trước kia. Ở chế độ mặc định, việc đồng bộ này chỉ thực hiện khi thiết bị được cắm sạc nên nó hoàn toàn không ảnh hưởng đến quá trình sử dụng của người dùng.
Cập nhật OTA: Trước iOS 5, người dùng buộc phải sử dụng cáp để cập nhật hệ điều hành iOS nhưng giờ đây, chúng ta chỉ cần 1 mạng WiFi và máy sẽ tự làm phần còn lại.
iCloud: Cuối cùng, Apple cũng đã đưa ra 1 giải pháp tuyệt vời hơn để thay thế MobileMe với tên gọi iCloud. Đây là nỗ lực mới nhất của họ trong việc hoàn thiện điện toán đám mây và cũng là lựa chọn thành công nhất. Các máy iOS có thể sao lưu toàn bộ dữ liệu lên iCloud, kể cả tài liệu và các file khác. Ứng dụng mua ở 1 máy tự động được tải về ở các máy khác, đồng bộ hóa hình ảnh giữa các máy iOS với nhau trong 30 ngày gần nhất....
Apple cũng đồng thời giới thiệu một giải pháp khác cho âm nhạc chứa toàn bộ các bài hát của bạn trên máy chủ của hãng, qua đó giảm thiểu việc phụ thuộc vào PC. Các chức năng nâng cao như phục hồi dữ liệu của máy cũng được thực hiện trực tiếp trên thiết bị.
Một vài tính năng khác: tích hợp Twitter, sử dụng nút tăng âm lượng để chụp hình, ứng dụng Reminder, Newstand cho các tạp chí, tính năng Reader trên Mobile Safari và đặc biệt là các cử chỉ đa nhiệm trên iPad cho phép thay thế gần như hoàn hảo nút Home. Người dùng iPad còn được bổ sung thêm bàn phím tách riêng gõ 2 tay dễ dàng hơn ở chế độ hiển thị ngang, bổ sung thêm thanh quản lý tab tiện dụng.
Tính năng AirPlay trên iOS 4 cũng nhận được cập nhật mới để iPhone 4S và iPad 2 xuất toàn bộ hình ảnh ra màn hình ngoài mà không cần ứng dụng phải viết lại để tương thích với nó.
Tất cả những tính năng trên lại đi kèm với 1 lỗi mới là làm giảm thời lượng pin tệ hại, do đó Apple đã đưa ra iOS 5.0.1 và sẽ còn nhiều bản sửa lỗi khác trong tương lại.
Thành thật mà nói, tất cả các tính năng quan trọng của iOS đều định hướng cho tương lai của nền tảng này.
iOS 6: Tạm biệt Google Maps và YouTube nhé
iOS 6 được giới thiệu tại WWDC vào ngày 11/6/2012, cũng giống lịch nâng cấp và giới thiệu hằng năm. Tuy nhiên iOS 6 năm nay đã gây sốc với mọi người khi mà ứng dụng YouTube và Google Maps quen thuộc mấy năm trời giờ đã biến mất. Thoạt đầu người ta tưởng đây là lỗi của bản beta, tuy nhiên sau đó Apple đã lên tiếng xác nhận hãng đã hoàn toàn chia tay với hai ứng dụng trên. Thay vào đó, Apple bổ sung vào iOS ứng dụng Maps của riêng mình với dữ liệu do chính hãng và các đối tác thu thập (như TomTom Maps) chứ không còn dùng của Google.
Maps: trước khi iOS 6 ra mắt, Apple đã mua lại rất nhiều công ty chuyên về bản đồ và định vĩ kĩ thuật số để giúp phát triển ứng dụng của riêng hãng và có khả năng cạnh tranh với Google. Việc không tích hợp sẵn Google Maps cho thấy Apple đã dứt khỏi hệ sinh thái đối thủ và tự chủ toàn bộ mọi thứ liên quan đến nền tảng mọi thứ của mình. Ứng dụng Maps của Apple hỗ trợ việc điều hướng turn by turn, chế độ xem 3D Flyover, thậm chí còn được tích hợp chung với Siri.
Cải tiến về Siri: Cô trợ lý ảo này đã có một đợt nâng cấp lớn so với hồi iOS 5. Siri iOS 6 có thể trả về cho bạn kết quả thi đấu thể thao, lịch trình làm việc của bạn, bài đánh giá các nhà hàng từ trang Yelp, thậm chí còn cho phép đặt bàn ăn trước thông qua dịch vụ OpenTable. Siri cũng có khả năng mở các ứng dụng bên thứ, điều mà nó không làm được một năm trước. Người dùng thì có thể cập nhật trạng thái Facebook, Twitter chỉ bằng cách nhờ Siri làm giùm, không cần phải gõ thủ công nữa. Chúng ta có thể thấy rằng giấc mơ hand free của Apple đang dần trở thành hiện thực.
Notification Center: tính năng này thực chất đã có từ hồi iOS 5, nhưng lên iOS 6 thì nó có thêm chế độ Do Not Disturb để tắt các thông báo đi vào một thời điểm định trước hoặc tắt thủ công. Thanh trượt xuống thì có thêm hai nút để post nhanh status lên Twitter hoặc Facebook.
Tích hợp chặt với Facebook: Hồi iOS 5 Apple đã tích hợp Twitter vào sâu trong hệ điều hành của mình, và bây giờ hãng thực hiện điều tương tự với Facebook. Ngoài khả năng post status Facebook từ khu vực thông báo hoặc thông qua Siri, chúng ta còn có thể chia sẻ nhiều nội dung khác nhau như hình ảnh, ghi chú, video lên Facebook chỉ bằng một hoặc hai cú nhấn. Bạn sẽ không phải chạy app Facebook lên nữa bởi mạng xã hội này đã được tích hợp sẵn vào nút Share của hệ điều hành. Điều đó cũng có nghĩa là các app bên thứ ba cũng có khả năng chia sẻ lên Facebook thật nhanh chóng.
Passbook: Passbook là ứng dụng giúp lưu trữ các loại thẻ giảm giá, vé vào cổng điện tử, ve 1lên máy bay, nói chung là bất kì thứ gì có mã vạch hoặc mã QR đều được. Tuy nhiên ở Việt Nam thì tính năng này không được xài nhiều.
iCloud Tabs và Reading List: tính năng đầu tiên cho phép người dùng đồng bộ các tab đang mở của mình xuyên suốt nhiều thiết bị iOS và OS X khác nhau. Điều này có nghĩa là bạn có thể mở một trang web nào đó trên máy tính, sau đó xách iPhone ra ngoài đường và vẫn có thể mở đúng trang đó lên một cách dễ dàng. Tính năng này rõ ràng là để cạnh tranh với Google Chrome Sync. Reading list thì được cải tiến để lưu cả nội dung của trang web chứ không chỉ lưu link như hồi iOS 5 nữa.
Gọi Facebook trên mạng di động: Trước đây FaceTime chỉ xài được khi có Wi-Fi và điều này đã diễn ra từ khi iPhone 4 ra mắt. Trong iOS 6, giới hạn này đã được gỡ bỏ, và người dùng có thể xài FaceTime trên cả mạng 4G LTE lẫn 3G. Ngoài ra Apple còn cho phép người dùng thêm số điện thoại và nhiều địa chỉ email để dùng với FaceTime.
iOS 7: Xin chào Jony Ive
iOS 7 là phiên bản đầu tiên của iOS mà Apple chỉnh sửa rất nhiều thứ về mặt giao diện. Chúng ta có thể xem iOS 7 như một cú chuyển mình hoàn toàn của iOS sau 6 năm trời tồn tại. iPhone 5s và iPhone 5c là hai thiết bị được cài sẵn hệ điều hành mới này, iPad 4, iPad 3, iPad 2, iPhone 4, 4s, 5 và iPod Touch đới thứ 5 thì có cập nhật lên.
Như đã nói ở trên, iOS 7 là cải tiến rất lớn của Apple bởi có sự tham gia của Jony Ive vào quá trình thiết kế phần mềm chứ không chỉ giới hạn ở phần cứng nữa. Các biểu tượng bóng bẩy, hoa văn tinh xảo, những hình ảnh mô phỏng các đối tượng ngoài đời thực đã không còn. Thay vào đó, Apple áp dụng phong cách thiết kế phẳng và đơn giản hóa mọi thứ, từ icon cho đến các nút và văn bản hiển thị trên màn hình.
Điểm mấu chốt trong giao diện iOS 7 đó là sự sắp lớp (layer). Apple làm cho người dùng cảm thấy như ứng dụng đang chồng lên màn hình chính, bản thân các đối tượng đồ họa trong một app cũng như chồng lên những đối tượng còn lại. Ví dụ dễ thấy nhất đó là ứng dụng nhắn tin: vì bàn phím trong suốt nên khi bạn cuộn xuống, bạn sẽ thấy như nó đang đè lên trên các dòng tin nhắn xanh dương, xanh lá, tạo cảm giác mờ ảo khá thú vị. Hiệu ứng tương tự cũng được mang vào Notification, màn hình khóa và nhiều nơi khác.
Control Center: đây là thành phần mới hoàn toàn trong iOS. Bạn có thể kích hoạt nó từ mọi nơi, kể cả khi đang ở màn hình khóa, màn hình chính hay đang chạy app, bằng cách kéo ngón tay từ cạnh dưới màn hình lên trên. Control Center sẽ cho phép bạn bật tắt những kết nối hay dùng như Wi-Fi, Bluetooth, chế độ Do Not Disturb (tự tắt hết thông báo hệ thống), chế độ Airplane (tắt hết kết nối không dây), khóa xoay màn hình. Tại đây bạn cũng có thể chỉnh độ sáng màn hình, điều khiển việc chơi nhạc, bật tắt AirDrop. Apple cũng cho phép chúng ta khởi chạy nhanh các app như đèn pin, đồng hồ, máy tính và máy ảnh. Control Center sẽ giúp bạn tiết kiệm được rất nhiều thời gian so với phải các thao tác kể trên một cách thủ công.
AirDrop: Nếu đã từng dùng OS X thì bạn sẽ nhận ra sự lợi hại của tính năng chia sẻ file này. Nhờ kết nối không dây mà người dùng iOS 7 giờ đây có thể chia sẻ dữ liệu với người dùng iOS khác trực tiếp từ các app nào có hỗ trợ, chẳng hạn như Photos, Contacts và một vài app bên thứ ba. Đáng tiếc AirDrop trên iOS 7 chỉ hỗ trợ các phần cứng bao gồm iPhone 5, iPod touch gen 5, iPad gen 4 và iPad mini mà thôi. Do giới hạn phần cứng mà các phiên bản thấp hơn không thể sử dụng tính năng này. Đáng tiếc rằng chúng ta cũng chưa thể chia sẻ file qua AirDrop với OS X.
Bộ iWork và iLife miễn phí: Nếu bạn mới sắm cho mình một thiết bị iOS mới, như iPhone 5s hay 5c chẳng hạn, bạn sẽ được miễn phí bộ iWork bao gồm Pages, Numbers và Keynote. Trước đây những app này có giá đến 9,99$ mỗi app lận. Những app thiên về đa phương tiện như iMovie, iPhoto cũng được miễn phí, người dùng không phải chi 4,99$ mỗi app như trước nữa.
Sự thay đổi trong các ứng dụng cài sẵn: Như đã nói ở trên, iOS 7 đại diện cho một sự thay đổi lớn về giao diện. Tất cả các app cài sẵn như Photos, Calendar, Messages, Clock, Calculator đều được thay đổi theo hướng sạch và gọn hơn, sử dụng gam màu trắng làm chủ đạo và chữ thì có màu xanh dương.
Với iOS 7, Apple còn giới thiệu thêm một thao tác vuốt để giúp bạn di chuyển giữa các trang và mục trong ứng dụng được dễ dàng hơn. Ví dụ như ở Safari, bạn sẽ không cần nhấn nút Back để quay lại trang vừa xem nữa, chỉ cần quét ngón tay là xong. Ở Photos, Notes, trình gọi điện, email và một số ứng dụng khác cũng tương tự như vậy. Ngoài ra bạn cũng có thể vuốt ngón tay sang phải và khi đó tác dụng sẽ giống nút Forward, nhưng ít app hỗ trợ thao tác này. Mình chỉ mới thấy Safari là có vuốt sang phải để chuyển đến trang kế tiếp mà thôi.
iTunes Radio: đây là câu trả lời của Apple cho các dịch vụ radio trực tuyến như Spotify như Rdio. Tuy nhiên thay vì cung cấp đầy đủ dịch vụ nhạc vốn có thể gây ảnh hưởng tới doanh thu iTunes Music, hãng cho người dùng một trải nghiệm nghe nhạc theo yêu cầu và tập trung chủ yếu vào từng "đài" được chia theo ca sĩ, album, thể loại...
Camera và Photos: Khả năng chỉnh sửa ảnh đã có trên iOS từ lâu, nhưng trên iOS 7 chúng ta có thêm một công cụ mới khá hay để áp hiệu ứng màu lên ảnh, đại loại giống như Instagram. Để sửa một ảnh nào đó, bạn mở ảnh đó ra bằng ứng dụng Photos của iOS, nhấn vào nút "Sửa" ở góc trên bên phải màn hình. Trong giao diện mới màu đen, hãy nhìn xuống cạnh dưới, có một nút với ba vòng tròn chồng lên nhau. Đó chính là nút Effects. Nhấn vào đây bạn sẽ thấy một số hiệu ứng mà Apple tích hợp sẵn cho chúng ta, hãy chọn cái nào mà bạn thích. Bên cạnh đó bạn còn có thể để cho máy tự tinh chỉnh màu sắc (biểu tượng cây đũa thần), khắc phục hiện tượng mắt đỏ (biểu tượng con mắt gạch chéo), cắt cúp lại ảnh cho phù hợp (biểu tượng hai góc vuông lồng vào nhau).
Riêng chiếc iPhone 5s, Apple bổ sung khả năng đánh hai màu flash LED, tính năng chụp liên tục 10fps, quay phim slow-motion 120fps ở độ phân giải 720p, cải thiện tính năng ổn định hình ảnh bằng phần mềm cho camera.
Phần mềm Photos của iOS 7 có một tính năng khá vui vẻ tên là Moments ("khoảnh khắc"). Nó sẽ tự động nhóm các ảnh được chụp ở một khoảng thời gian hoặc một địa điểm nào đó lại với nhau và tạo nên các "sự kiện". Để xem các "khoảnh khắc", bạn hãy chạy ứng dụng Photos lên, ở cạnh dưới màn hình có hai nút, chọn vào nút "Ảnh". Trước tiên bạn sẽ mọi ảnh trong bộ sưu tập của mình và chúng được chia làm nhiều mục nhỏ khác nhau. Tiếp tục tìm xem hình ảnh mà bạn muốn xem đang nằm ở khoảng thời gian/địa điểm nào, nhấn vào đó.
Đa nhiệm mới: Việc chạy đa nhiệm là một cải tiến lớn trong iOS 7, về cả giao diện lẫn cách mà Apple tích hợp nó vào OS. Giao diện quản lý các app này cũng được làm mới theo dạng thẻ (card) và icon tương ứng ở phía dưới. Dù hỗ trợ toàn bộ ứng dụng nhưng Apple cho biết điều đó không làm ảnh hưởng tới thời gian sử dụng pin của thiết bị. Và để kích hoạt trình đa nhiệm mới này cũng y như các bản iOS trước đây mà thôi, đó là nhấn hai lần nút Home. Trên iPad thì bạn có thêm một cách nữa, đó là dùng 5 ngón tay để vướt từ phía dưới màn hình lên trên để có được hiệu quả tương tự.
Những gì diễn ra ở phía sau cánh gà mới thật sự thú vị với hai sự thay đổi chính: Trước hết, app có thể được kích hoạt để tải dữ liệu thông qua một thông báo push. Điều này có nghĩa là nếu như bạn nhận được email hoặc tin chat, app có liên quan sẽ tải về dữ liệu mới ngay lập tức. Thay đổi thứ hai là automatically coalescing để giúp iOS chờ đến thời điểm thích hợp mới bắt đầu tải dữ liệu về máy. Nó giúp tăng thời gian dùng pin của thiết bị bởi vì chỉ khi nào bạn ở trong một khu vực có sóng tốt (hoặc khi bật màn hình iPhone lên) thì máy mới bắt đầu download.
FaceTime Audio: như các tên đã gợi ý, tính năng này cũng xài FaceTime nhưng không cần phải xem hình ảnh mà hai người có thể chat với nhau bằng tiếng nói, giống gọi Skype, Yahoo Messenger, Viber hay WhatsApp. Và tất nhiên, FaceTime Audio có thể chạy trên mạng Wi-Fi, LTE hoặc 3G.
Tự động cập nhật ứng dụng: với iOS 7, bạn có thể quên đi thao tác chạy App Store và nhấn nút update bởi vì các bản cập nhật của app sẽ được tự động tải về cho bạn.
Touch ID: đây có lẽ là tính năng thú vị hàng đầu trên iOS 7, nhưng nó chỉ xài được trên iPhone 5s bởi chỉ có thiết bị này mới được tích hợp cảm biến vân tay. Touch ID cho phép bạn mở khóa máy hoặc mua nội dung số mà không cần phải nhập password thủ công, tất cả đều có thể thực hiện qua vân tay. Hiện Touch ID chỉ mới được giới hạn ở một số ứng dụng nhất định chứ chưa mở cho bên thứ ba sử dụng. Apple cũng chưa công bố kế hoạch nào để cho phép các app bên ngoài truy cập và tận dụng Touch ID.
iOS trong tương lai
Trong 6 năm qua, chúng ta đã được thấy nhiều cuộc tranh luận từ chuyện liệu iPhone có phải là một chiếc smartphone hay không cho đến việc iPhone có thể thay thế máy tính hay không. Những câu hỏi này không chỉ vì thế giới công nghệ đang thay đổi mà còn bởi vì Apple có thể thay đổi hệ điều hành của mình mỗi năm và làm mới nó. Sự tiến hóa của iOS là rất đáng ghi nhận, từ một OS có rất nhiều chữ không trở thành một hệ điều hành tiên tiến và hiện đại với nhiều tính năng vượt trội so với các đối thủ khác trên thị trường.
Với iOS 7, Apple quả thật đã làm mới giao diện rất nhiều, nhưng nó vẫn chưa thay đổi gì nhiều trong cách mà chúng ta tương tác với smartphone và tablet như những gì iOS mang lại cho thế giới. iOS 7 cũng có nhiều tính năng mới hữu ích thật đấy, thế nhưng trải nghiệm của người dùng không có nhiều điểm mới, chúng ta vẫn có một màn hình chính, chạy app lên, thoát ra ngoài, chuyển qua lại giữa các app trong chế độ đa nhiệm. Vậy Apple sẽ làm gì trong tương lai để cải thiện điều này? Chúng ta hãy chờ xem.