[SG.Airshow] Trực thăng chiến đấu AH-64D Apache và máy bay vận tải lên
thẳng MV-22 Osprey của Boeing
Bên cạnh các mẫu máy bay phản lực quân sự, triển lãm hàng không Singapore Airshow năm nay cũng có không ít các mẫu máy bay trực thăng chiến đấu và vận tải. Trong số đó phải kể đến 2 sản phẩm nổi tiếng hiện đang được Boeing sản xuất là trực thăng chiến đấu Apache và trực thăng vận tải đa năng MV-22 Osprey.
Boeing AH-64D Apache:
Boeing AH-64 Apache là một mẫu máy bay trực thăng tấn công với rotor 4 cánh kèm 2 động cơ và buồng lái đôi dành cho 2 phi công. Nguyên gốc của Apache là mẫu trực thăng Model 77 được phát triển bởi công ty Hughes Helicopters dành cho chương trình trực thăng tấn công tối tân Advanced Attack Helicopter của Quân đội Hoa Kỳ nhằm thay thế cho AH-1 Cobra. Nguyên mẫu Apache đầu tiên với số hiệu YAH-64 đã thực hiện chuyến bay thử đầu tiên vào tháng 9 năm 1975. Quân đội Hoa Kỳ cuối cùng đã chọn nguyên mẫu này để phê chuẩn sản xuất vào năm 1982. Sau khi mua lại Hughes Helicopters năm 1984, McDonnell Douglas tiếp tục sản xuất và phát triển AH-64 Apache. Và sau khi McDonnell Douglas sáp nhập với Boeing vào năm 1997, hoạt động sản xuất tiếp tục được chi nhánh Boeing Defense, Space & Security duy trì. Tính đến hiện tại đã có hơn 1000 chiếc AH-64 Apache với nhiều biến thể đã được xuất xưởng. AH-64 Apache có 5 biến thể là AH-64A/B/C/D và E.
Về thiết kế, AH-64 Apache có rotor chính và rotor đuôi đều có 4 cánh quạt. Buồng lái được thiết kế cho 2 phi công với vị trí ngồi sau cao hơn trước. Phi công ngồi sau sẽ đóng vai trò là cơ phụ và pháo thủ. Cả 2 phi công đều có thể điều khiển máy bay và kích hoạt vũ khí độc lập. Phiên bản AH-64D Apache được đem đến triển lãm dùng 2 động cơ tuabin trục (turboshaft) T700-GE-701C do General Electric sản xuất với các họng xả được lắp cao sát 2 bên thân máy bay. Buồng lái và rotor cánh quạt được thiết kế để có thể chịu được đạn 23 mm. Khung sườn máy bay có đến 1100 kg vật liệu bảo vệ và thùng nhiên liệu tự vá - ngăn nhiên liệu rỉ ra ngoài trong trường hợp bị bắn phá bởi các loại đạn. Thiết kế máy bay cũng đáp ứng tiêu chuẩn quân sự MIL-STD-1290 với mục tiêu giảm thiểu năng lượng chấn động khi rơi để giảm thiểu tối đa thiệt hại về người. AH-64 Apache có thể bay ở vận tốc tối đa 293 km/h, tầm bay 476 km và trần bay 6400 m ở tải trọng tối thiểu.
Một trong những tính năng mang tính cách mạng trên AH-64 Apache là màn hình hiển thị trong mũ phi công hay IHADSS. Với chiếc mũ này, phi công hay pháo thủ có thể điều khiển khẩu súng tự động M230 cỡ đạn 30 mm lắp bên dưới máy bay nhắm bắn mục tiêu chỉ với việc chuyển động đầu về mục tiêu đang quan sát. Khẩu M230E1 có thể được khóa cố định hướng về trướng hoặc được điều khiển thông qua hệ thống Target Acquistion & Designation System (TADS). Hiệu suất chiến đấu tiêu chuẩn của một pháo thủ trên AH-64 Apache thường tiêu diệt ít nhất 1 phương tiện hoặc 1 mục tiêu trong một loạt đạn 30 viên ở cự ly từ 800 đến 1200 m.
AH-64 được thiết kế để chịu được các môi trường hoạt động khác nhau và để vận hành trong suốt cả ngày và đêm, trong nhiều điều kiện thời tiết nhờ hệ thống cảm biến và điện tử hàng không tiên tiến. Các hệ thống này bao gồm hệ thống chọn và khóa mục tiêu TADS, hệ thống tầm nhìn phi công ban đêm PNVS, hệ thống đối phó hồng ngoại bị động, định vị GPS và mũ phi công IHADSS. Một hệ thống mới hơn là Arrowhead đã được Lockheed Martin phát triển thay thế cho TADS/PNVS và kể từ năm 2005 thì Arrowhead đã xuất hiện trên những chiếc Apache của quân đội Mỹ.
Về phiên bản AH-64D Apache Longbow thì đây là một phiên bản cải tiến được trang bị gói cảm biến tiên tiến và buồng lái được thiết kế theo mô hình Glass Cockpit. Những cải tiến chính trên AH-64D so với AH-64A là đỉnh tròn radar được lắp trên rotor cánh quạt chính. Bên trong radome này là radar kiểm soát khai hỏa bằng sóng millimet (FCR) AN/APG-78 Longbow, hệ thống khóa mục tiêu và radar đo giao thoa tần số (RFI). Vị trí radome được đặt cao hơn cho phép phát hiện các mục tiêu và phóng tên lửa trong khi trực thăng đang bay đằng sau các chướng ngại vật như địa hình, cây cối hoặc tòa nhà. Radar AN/APG-79 có khả năng theo dõi cùng lúc 128 mục tiêu và xác định 16 mục tiêu nguy hiểm nhất, cho phép khai hỏa chỉ trong 30 giây. Vào năm 2012, AH-64D được nâng cấp với hệ thống bắt mục tiêu trên mặt đất (GFAS) nhằm phát hiện và tấn công các nguồn hỏa lực trên mặt đất. GFAS gồm 2 cảm biến nhỏ được tích hợp trên 2 đèn chớp ở mũi máy bay. Cùng với các cảm biến có sẵn và camera hồng ngoại trên AH-64D, GFAS có thể xác định chính xác sự hiện diện của các mối đe dọa trên mặt đất ở khoảng cách thích hợp. GFAS có trường quan sát 120 độ và hoạt động hiệu quả ở tất cả điều kiện ánh sáng.
Là một máy bay trực tăng chiến đấu đa năng, tấn công tầm gần nên AH-64 có thể được trang bị nhiều loại vũ khí khác nhau. Ngoài khẩu M230E1 30 mm với cơ số đạn 1200 viên lắp dưới, hệ thống vũ khí còn lại được lắp qua các mấu cứng trên 2 cánh nhỏ của máy bay. Thông thường, AH-64 Apache được gắn hỗn hợp hệ thống tên lửa chống tank AGM-114 Hellfire gồm 8 quả (mỗi bên cánh 4 quả) và rocket Hydra 70 không dẫn đường gồm 38 quả (mỗi bên cánh 19 quả lắp trong ống phóng tổ ong). Đây cũng chính là trang bị tiêu chuẩn trên phiên bản AH-64D Apache có mặt tại triển lãm. Ngoài ra, AH-64D Apache còn có thể được trang bị thêm 2 tên lửa không đối không AIM-92 Stinger tại 2 đầu cánh nhỏ.
Giá của mỗi chiếc AH-64D Apache với hệ thống vũ khí tiêu chuẩn từ 52 đến 61 triệu USD.
Bell Boeing MV-22 (hay V-22) Osprey:
Nếu mới nhìn vào V-22, bạn có thể thấy nó vừa giống một chiếc máy bay tuabin cánh quạt (tuboprop) lại vừa giống một chiếc trực thăng 2 cánh quạt. Vậy phải gọi nó là gì? Theo mô tả chính xác thì V-22 là một mẫu máy bay cất/hạ cánh thẳng đứng và cất/hạ cánh cự ly ngắn với rotor cánh quạt có thể nghiêng (tiltrotor). Thiết kế của V-22 kết hợp chức năng của một chiếc trực thăng truyền thống với tầm bay xa và tốc độ hành trình của một chiếc máy bay tuabin cánh quạt.
V-22 Osprey là một sản phẩm từ chương trình JVX của Bộ quốc phòng Hoa Kỳ. Chương trình phát triển máy bay này được phát động vào năm 1981 nhằm tìm kiếm "một loại máy bay mới không chỉ có thể cất hạ cánh thẳng đứng mà còn có thể mang theo lực lượng chiến đấu và bay ở tốc độ cao" sau thất bại của Mỹ trong cuộc khủng hoảng con tin tại Iran vào năm 1980. Dưới sự dẫn dắt của Hải quân Mỹ và Thủy quân lục chiến, chương trình JVX kết hợp tất cả các yêu cầu từ lực lượng thủy quân lục chiến, không quân, bộ binh và thủy quân Mỹ. Chương trình nhanh chóng thu hút sự chú ý của các hãng sản xuất lớn như Aerospatiale, Bell Helicopter, Boeing Vertol, Grumman, Lockheed và Westland. Nhóm thầu Bell Helicopter và Boeing Vertol đã dành được hợp đồng phát triển máy bay cho dự án JVX sau khi cả 2 hợp tác đệ trình một phiên bản mở rộng của nguyên mẫu máy bay rotor cánh quạt nghiêng Bell XV-15 vào tháng 2 năm 1983.
Vào tháng 1 năm 1985, 6 nguyên mẫu V-22 được giới thiệu và kể từ đây, Boeing Vertol bắt đầu mở rộng hợp đồng sản xuất. Công việc sản xuất được chia đều giữa Bell và Boeing. Bell sản xuất và lắp ráp cánh, vỏ động cơ, rotor, hệ thống lái, mặt đuôi, cửa sau, và tích hợp động cơ Rolls-Royce, hoàn thành khâu lắp ráp hoàn thiện. Trong khi đó Boeing sản xuất và lắp ráp thân máy bay, buồng lái, hệ thống kỹ thuật điện tử và kiểm soát chuyến bay. MV-22 Osprey là tên gọi của V-22 Osprey dành cho lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ. Nếu là phiên bản dành cho không lực Hoa Kỳ thì nó có tên là CV-22 Osprey.
V-22 Osprey là mẫu máy bay rotor cánh quạt nghiêng được sản xuất đầu tiên trên thế giới. Mỗi bên cánh có một động cơ tuabin cánh quạt kèm phần cánh quạt gồm 3 cánh có thể nghiêng. Khi cất cánh và hạ cánh, V-22 hoạt động giống như một chiếc trực thăng với động cơ xoay lên trên, thân động cơ nằm dọc và cánh quạt nằm ngang. Khi đã cất cánh, thân động cơ xoay về trước 90 độ trong vòng 12 giây để máy bay có thể bay ngang về phía trước tương tự một chiếc máy bay dùng động cơ tuabin cánh quạt với tốc độ tương đương và tiết kiệm nhiên liệu. Khả năng cất hạ cánh trong cự ly ngắn của V-22 có thể thực hiện bằng cách điều chỉnh thân động cơ nghiêng về trước 45 độ. Máy bay sẽ chạy một đoạn ngắn trên đường băng và cất cánh. Ngoài ra, nếu nghiêng động cơ 1 góc 80 độ, V-22 sẽ thực hiện cú cất cánh 80 Jump nhằm nhanh chóng đạt độ cao và tốc độ cao.
Khung sườn máy bay có đến 43% vật liệu chế tạo từ composite. Các cánh quạt cũng được đúc bằng composite. Để tiện cho việc vận chuyển và lưu giữ trên tàu sân bay, các cánh rotor có thể gập gọn và cánh máy bay sẽ được xoay ngang với thân chỉ trong vòng 90 giây.
Về hệ thống đẩy, V-22 sử dụng 2 động cơ Rolls-Royce AE 1107C. 2 động cơ được kết nối bởi các trục lái vào một hộp số trung tâm để một động cơ có thể vận hành cả 2 rotor nếu động cơ còn lại bị hỏng. Do rotor có quán tính thấp nên đặc tính tự xoay trong trường hợp động cơ bị hỏng của V-22 rất thấp. Động cơ cho công suất 4586 kW, cho phép V-22 Osprey bay ở vận tốc tối đa 463 km/h với tổng trọng tải 21.318 kg. Tốc độ tối đa mà V-22 có thể đạt được là 509 km, tầm bay xa 1627 km và trần bay 7620 m.
Bên trong buồng lái của V-22 được thiết kế theo mô hình Glass Cockpit với 4 màn hình hiển thị đa chức năng MFD, tương thích với kính quan sát ban đêm và một màn hình hiển thị trung tâm CDU cho phép phi công quan sát nhiều hình ảnh bao gồm bản đồ kỹ thuật số, hình ảnh từ hệ thống quan sát hồng ngoại FLIR, thông tin chuyến bay, dữ liệu dẫn đường và tình trạng hệ thống. Bảng điều khiển chính của hệ thống quản lý buồng lái CMS cho phép kích hoạt tính năng autopilot để máy bay có thể lơ lửng ở độ cao 15 m mà không cần đến tác động của phi công. Ngoài ra, V-22 Osprey còn khai thác công nghệ fly-by-wire - sử dụng tín hiệu điều khiển điện tử thay cho hệ thống cơ học. Các máy tính trên máy bay sẽ điều khiển trạng thái bay của máy bay tương ứng với chỉ thị của phi công. Buồng lái bao gồm 4 người gồm 1 cơ trưởng, 1 cơ phụ và 2 kỹ sư.
Về khả năng vận tải, V-22 Osprey có thể chuyên chở từ 24 đến 32 lính hoặc 9.070 kg hàng hóa hoặc 1 chiếc xe tần tra M1161 Growler. Là một chiếc máy bay vận tải nhưng V-22 Osprey có thể được trang bị vũ khí với một khẩu súng máy M240 hoặc M2 dùng đạn 12.7 mm đặt trên bệ tải hàng hay một khẩu GAU-17 6 nòng đặt dưới bụng điều khiển qua hệ thống Remote Guardian System. Ngoài ra, Boeing đang phát triển một bộ công cụ nạp nhiên liệu trên không để mang lại khả năng tiếp nhiên liệu cho các máy bay khác khi đang bay trên V-22. Thùng xăng trên V-22 có thể chứa tối đa 5.400 kg nhiên liệu và vào tháng 8 năm ngoái, Boeing cũng đã thử nghiệm thành công khả năng tiếp nhiên liệu bằng cơ chế ống hút - đầu bơm (hose/drouge) giữa MV-22 và một chiếc F/A-18 Hornet.
Mỗi chiếc V-22 Osprey có giá khoảng 68 triệu USD và ngoài Hoa Kỳ, Israel và Nhật Bản là 2 quốc gia vừa đặt mua lần lượt 6 và 17 chiếc V-22 Osprey hồi đầu năm nay.